Củ từ
Tô Đồng
Vũ Phong Tạo dịch
Về nhà, cô tôi đầu tiên nhìn thấy hai
con gà trống to lông màu hoa lau, chúng bị quây trong túi lưới, một con ngồi, một
con đứng, nhưng xem ra đều hiền lành. Trông thấy con gà trống hoa lau lớn, cô
tôi biết ngay anh họ của tôi đã về nhà, cô ngắm nghía kỹ lưỡng mặt đất, song
cũng chưa biết là gà biết giữ vệ sinh, hay là đói bụng nên không thể ỉa bậy được,
tóm lại mặt đất vẫn rất sạch sẽ.
Cô tôi túm mào của một con gà trống xem
xét một lát, nói: “Chắc không phải là gà rù, chỉ biết mang về gà trống, đã
không thể hầm được, lại không thể đẻ trứng, lại còn gáy sáng làm mất giấc ngủ của
mọi người nữa chứ”.
Cô tôi đi đến cạnh nhà bếp, đang định lấy
gạo cho gà ăn, bèn trông thấy một cô gái lạ mặc áo sơ mi màu hoa đào ngồi ở
ngoài sân, đang dùng mảnh sành cạo củ từ.
Cô cho rằng anh họ tôi đưa bạn gái về
nhà, vừa mừng vui vừa căng thẳng, chui tọt vào trong nhà bếp như kẻ cắp, chui
vào một tý, lại chạy ra ngay, tay vuốt tóc, đứng đấy hắng giọng. Cô gái gọt củ
từ ngẩng đầu lên, khuôn mặt bánh mật ngước lên, vừa nhìn đã biết là con gái
nông thôn. Cô ta đang ngồi trên ghế bỗng vụt đứng lên, không biết là e thẹn hay
lễ phép, gượng cười với cô tôi. Nghe thấy cô ta nói một câu gì đó không rõ, chắc
là tiếng địa phương, nên cô tôi không phân biệt rõ cô gái gọi cô tôi là gì. Bất
giác cô tôi nhíu lông mày, cô gái buông thõng tay, ánh mắt nhìn khắp người cô
tôi một lượt, co rúm lại, nhút nhát nhìn vào gian phòng của anh họ tôi, đột
nhiên kêu lên: “Đồng chí Tiểu Dương, đồng chí ra đây một tý, ra đây một tý đi”.
Anh họ tôi ngáp ngủ chậm rãi bước ra, anh họ tôi vừa ra thì cô gái nọ bèn cúi đầu
chui vào phòng. Trông thấy cô tôi đứng ngây ra ở đấy, anh họ tôi xoa bụng cười
khà, nói với cô: “Làm gì mà mẹ tròn mắt ra thế? Tưởng con dẫn bạn gái về phải
không? Tư tưởng con chưa tiến bộ như vậy đâu, tìm người nông thôn làm bạn gái”.
Cô tôi chờ anh họ tôi giải thích tiếp, song anh lại không giải thích, chỉ người
ở trong phòng, lại chỉ tay vào hai chú gà trống hoa lau trên mặt đất, nói cho
qua chuyện: “Đó là Cố Thái Tụ của Cố Gia Trang, người ta gặp phiền phức, cần ở
nhà ta mấy ngày, tránh tạm gió bão thôi mà”.
Bất luận chuyện của Thái Tụ uẩn khúc như
thế nào, vốn lại phát sinh tại gia đình nhà cô tôi, không liên quan gì với gia
đình nhà tôi. Song, đêm hôm ấy cô tôi nhắc đến một chú gà trống hoa lau bèn
nóng ruột như lửa đốt chạy đến nhà tôi, nói là cần bàn chuyện gấp với mẹ tôi.
Thật ra chuyện gấp ấy chính là chuyện của Thái Tụ, gấp không đến nỗi nào, chỉ
chẳng qua do cô tôi kể lại bằng một giọng như chết người ngay, nên câu chuyện
trở thành gai góc mà thôi.
Hồi ấy tôi còn nhỏ, không biết hình thức
hôn nhân đổi chác thịnh hành ở nông thôn, chỉ cần nghe rõ quan hệ trao đổi
trong đó, rất giống như phương trình toán mà chúng tôi học: X+Y= X1+Y1. Anh của
Thái Tụ lấy vợ, thì anh của người vợ ấy sẽ phải lấy Thái Tụ. Cô tôi nhấn mạnh
người đàn ông rất nhiều tuổi, bị bệnh động kinh, khi phát bệnh đã tự cắn đứt lưỡi
mình, cho nên vẫn là người đàn ông không có lưỡi.
Nghe đến đây mẹ tôi bèn kêu tướng lên:
“Làm như vậy sao được, một cô gái nết na xinh đẹp như vậy, Làm sao lại gả cho một
người không có lưỡi chứ? Gia đình họ Cố không thuộc quyền Mao Chủ tịch quản lý
ư? Coi nữ đồng chí như súc vật ư, bố mẹ họ làm chuyện hồ đồ như vậy, tổ chức Đảng
không có ý kiến gì ư?”
Cô tôi nói: “Chị đừng nói thao thao như
vậy nữa, tổ chức Đảng ở nông thôn đang bận học tập Đại Trại mà, bận túi bụi,
làm sao mà lo đến chuyện hôn nhân đổi chác như vậy được?” Cô tôi lại nói: “Phiền
toái là ở chỗ gạo đã thành cơm rồi, anh của Thái Tụ đã lấy em gái người ta về
làm vợå rồi, phía Thái Tụ thì được cánh thanh niên trí thức làm công tác tư tưởng,
không chịu lấy người ấy làm chồng”.
Cô tôi nhắc đến một nữ thanh niên trí thức
tên là Củng Ái Hoa, nói rằng Thái Tụ vốn đã chuẩn bị vì anh cô mà hy sinh bản
thân mình, song Củng Ái Hoa không đồng ý, đứng ra giúp đỡ cô ấy, còn giúp cô ấy
vạch ra một phương án trốn đi rất kỹ càng chi tiết. Cô tôi một mặt nguyền rủa bố
mẹ Thái Tụ lòng lang dạ sói, vì con trai mà đẩy con gái vào đống lửa, mặt khác
cô tôi cứ nguyền rủa Củng Ái Hoa, nói: “Cô ta thích chơi trội hơn người, là người
đầy dã tâm! Không cần cô ta xuống nông thôn, cô ta muốn xuống nông thôn, vì muốn
được lên báo chí. Xuống nông thôn rồi lại muốn tiên tiến, còn muốn lên báo chí,
dùng Thái Tụ con người ta để kê cao chân cho cô ta”. Cô tôi hận tận đáy lòng
nói: “Cô ta tiên tiến tôi cũng không phản đối, cô ta cứu người tôi cũng không
phản đối, song cô ta không thể chỉ nhận vinh quang về mình, đẩy phiền toái rắc
rối cho người khác. Đại Miêu của nhà ta không có đầu óc, nó bèn nghe theo sự
sai khiến của Củng Ái Hoa, bảo nó dẫn về là nó nhận về. Chị nghĩ nhà em hẹp như
thế này, lại toàn con trai, để một đứa con gái ở lại trong nhà thật chẳng ra thể
thống gì cả? Không cho người ta nói chuyện tầm phào ư?” Nói đến đây, cô tôi thấy
mẹ tôi nhận củ từ lại không tỏ thái độ gì, cuối cùng cô bèn nói toạc chuyện gấp
ấy ra: “Nhà tôi không có chỗ kê giường cho cô ta đâu, gác nhà chị có một mình
em gái út ngủ, để cho cô gái ấy ngủ trên gác với cô út đi. Ở lại năm ngày, chỉ
có năm ngày, coi như giúp đỡ tôi đi”. Cô tôi chìa bàn tay ra huơ huơ trước mặt
mẹ tôi, huơ huơ mãi, cứ chờ mãi đến lúc mẹ tôi gật đầu mới chịu thôi. Cuối
cùng, cô tôi thở phào nói: “Cái thằng Đại Miêu không có đầu óc nhà tôi nói rằng,
nhà chúng tôi là trạm giao thông thứ nhất, còn có những trạm liên lạc, sở chỉ
huy khác nữa chứ! Bọn chúng coi việc này như làm đại sự nghiệp cách mạng! Chờ đến
ngày Quốc khánh Củng Ái Hoa trả về đây, tôi sẽ bảo thằng Đại Miêu đưa cô gái ấy
đến nhà Củng Ái Hoa, tôi sẽ bảo thằng Đại Miêu rằng, nhà ta nhiều con cái thế
này, làm giao thông cho chúng đã bận bịu rồi, đâu còn sức mà làm trạm giao
thông cho người khác nữa?”
Tôi không mảy may biết một tí gì về cô
gái nông thôn tên là Thái Tụ ấy, song Củng Ái Hoa mà cô tôi nhắc đến, thì tôi
biết. Cô ấy và anh họ tôi là những thanh niên trí thức không giống nhau, cô ta
được lãnh đạo dựng lên thành điển hình. Trong bảng tuyên truyền của trường
chúng tôi có treo ảnh chân dung của cô ấy, một cô gái mắt to, hai má nhòn nhọn,
trên ngực cài một bông hồng to. Do chụp ảnh nghiêng, người hơi nghiêng, làm
duyên một tí, ánh mắt cô ấy nhìn rất xa xăm, lại ngước nhìn lên, theo tôi đó là
tư thế có hoài bão lý tưởng xã hội chủ nghĩa.
Trong đêm, anh họ tôi bấm đèn pin, đưa
Thái Tụ và một con gà trống sang nhà tôi. Anh họ tôi giống như áp tải hai kiện
hành lý, đưa hàng hóa vào kho, cắm đầu chạy một mạch. Mẹ tôi đưa cho anh một giỏ
chứa đầy củ từ đem về nhà, anh vâng vâng dạ dạ, song cuối cùng cái giỏ lại bị anh
để lại ở góc sau cổng.
Thái Tụ trở thành khách của gia đình tôi
như thế đó.
Con gà trống bị nhốt trong một cái bu gà
để ở góc sân, Thái Tụ và chị tôi ngủ chung với nhau trên gác. Từ trước đến nay,
nhà tôi chưa từng có khách như vậy, không phải thân thích, song tiếp đãi lịch sự
không hề thua kém người thân. Sáng sớm ngày đầu tiên, mẹ tôi trực tiếp nấu một
bát canh trứng cho cô ấy, cô ấy ngập ngừng một lát, không biết làm khách như thế
nào, bèn nhận lấy bát ăn một quả trứng, đột nhiên nhìn thấy ánh mắt của tôi, bỗng
biết cách khách khí, đưa bát cho tôi, nói: “Em ăn đi, nhà quê chúng tôi gà đẻ
nhiều trứng, nên thường xuyên ăn”. Mẹ tôi ngoài miệng đe nẹt tôi, song trong mắt
lại tỏ ra khen ngợi Thái Tụ, tôi nhận ra, cho nên tôi bưng bát canh trứng ra
ngoài ăn, mẹ tôi không ngăn tôi nữa, nói với Thái Tụ: “Hay là cháu ăn cháo đi,
sáng sớm ăn cháo nhẹ nhàng nhất, dễ tiêu hóa”.
Tôi ngắm nhìn bộ dạng Thái Tụ ăn cháo,
bát che kín mặt, cô ấy không dùng đũa, tựa hồ như uống nước, nâng bát lên dốc
ngược vào miệng.
“Thái Tụ cháu ăn chậm một chút, cháo còn
đầy một nồi to đấy”. Mẹ tôi nói: “Thái Tụ, đêm qua cháu ngủ có ngon không?”
Cô ấy không biết diễn đạt như người
thành phố, nghĩ một lát, lắc đầu nói: “Cháu tỉnh giấc mấy lần, tại sao nửa đêm
vẫn có xe lửa kêu, thuyền máy cũng kêu, cháu sợ chết khiếp”.
“Chẳng phải chị ngủ rất say đó sao? Tám
giờ mới thức dậy! Em còn nghe thấy chị ngáy” - Chị tôi ngồi cạnh liếc mắt nhìn
cô ấy, làu bàu nói: “Em mới không ngủ ngon, sáu giờ đã tỉnh dậy, vì chị nghiến
răng làm cho em mất ngủ đấy”.
“Tại em thính tai, nghiến răng mà cũng
làm em tỉnh giấc ư? Người nhà quê uống nước lã, trong bụng có giun, ban đêm ngủ
đều nghiến răng”. Mẹ tôi ngăn chị tôi oán trách, lại hỏi Thái Tụ: “Thái Tụ! Ở
quê cháu cũng tám giờ mới dậy à?”
“Gà chưa gáy, cháu tưởng trời chưa sáng,
ở nông thôn nghe gà gáy thì dậy. Cũng lạ thật, đêm ở chỗ các bác xe lửa kêu,
thuyền buồm kêu, trái lại gà trống lại không gáy” - Chị ấy liếc nhìn ra góc
sân, lẩm bẩm nói: “Gà trống cũng sợ chỗ lạ, ra thành phố đều không gáy nữa”.
“Gà trống không còn nữa” - Mẹ tôi nói:
“Bố các con vừa sáng đã đem gà đi giết rồi, đem ướp thành gà muối rồi, đến Tết
ăn vừa ngon”.
Trong nhà bếp yên lặng như tờ, Thái Tụ
buông bát cháo xuống, thái độ của cô ấy xem ra rất kinh ngạc, không rõ tại sao
lại kinh ngạc. Thái độ khiến cả nhà tôi cảm thấy khó chịu thế nào ấy. Giọng
chói tai của chị tôi bèn vang lên: “Chỗ chúng tôi là khu phố vệ sinh tiên tiến,
không được nuôi gà!?”
Thái Tụ lách người chạy ra góc sân, sắc
mặt hơi tái đi, cô ấy liếc nhìn con gà trống trụi lông treo trên dây phơi quần
áo. Dựa vào cánh cửa, cô ấy không nói gì, song tôi nhìn ra cô ấy rất buồn.
“Chỗ chúng tôi không được nuôi gà”. Mẹ
tôi ngoảnh lại, vừa quan sát thái độ của Thái Tụ, vừa nói cho cô rõ: “Con gà trống,
chứ đâu có phải con thỏ con con dê con, làm gì mà tiếc, gà nuôi lớn đều phải thịt
mà”.
“Không phải cháu tiếc” - Thái Tụ lắc đầu,
nói: “Con gà trống ấy là con gà con mà cháu chọn từ trong lò ấp, rồi nuôi nó lớn”.
“Thế không tiếc là gì, chính cháu nuôi lớn
thì càng tiếc chứ”. Mẹ tôi thử nhìn cô ấy, nói: “Thịt thì đã thịt rồi, cũng hết
cách rồi phải không?”
Thái Tụ vẫn lắc đầu, nói: “Không phải tiếc”.
Mẹ tôi chờ cô ấy nói tiếp, song cô không nói gì nữa, mà chỉ qua quýt: “Giết một
con gà trống rồi cũng chỉ ăn được mấy miếng thịt, người nhà quê chúng cháu
không thích ăn gà trống”.
Mẹ tôi nghe ra đó là một lời nói có ý
trách móc, lại là một cô gái nông thôn đang quở trách bà. Mẹ tôi hơi bị hố, bỏ
mặc cô ấy rồi ra ngoài, vừa đi vừa nói: “Nhà quê các người cần nghe gà gáy,
chúng tôi không cần, có đồng hồ chuông báo thức rồi, gà trống chỉ để ướp muối
ăn rất rẻ”.
Lông con gà trống dầy dặn và bóng mượt bị
bố tôi vặt trụi, để lên tờ giấy báo cũ phơi nắng. Thái Tụ ngồi xổm trước đống
lông gà, chọn lấy một sợi lông gà màu vàng, tay mân mê rồi lại đặt xuống. Cô ấy
giữ lông gà để làm gì nhỉ?
Cô
ấy hỏi tôi: “Làm cầu lông không? Em trai có thích đá cầu không?”
“Ai thèm đá cầu chứ? Em không phải là
con gái”. Tôi bực mình nói với cô ấy: “Phơi khô bán cho trạm thu mua, lông gà
có thể bán lấy tiền”.
Xét đến cùng, Thái Tụ vẫn là khách của
nhà chúng tôi, bất luận cô ấy có làm mọi người vui vẻ hay không, lịch sự tiếp
khách vẫn không thể thiếu. Ngày đầu tiên, chị tôi dẫn Thái Tụ đi chơi, nói là
đi dạo công viên, song Thái Tụ không thích thú công viên, lượn nhoáng một vòng
bèn đi ra. Thái Tụ nói ngay những cây to, ngay những hồ nước, bên hồ nước đắp
hòn non bộ, trên non bộ lại dựng những ngôi đình, thế mà là công viên ư? Để thu
tiền ư? Đã ra thấy mọi người đều đi vào trong công viên, Thái Tụ lại hối hận,
nói với chị tôi: “Không nên ra nhanh như vậy, hơn nữa lại không đòi lại được ba
hào, chi bằng đi nhiều hơn nữa trong ấy”. Chị tôi nói rằng suốt đường đi Thái Tụ
cứ xót ruột vì ba hào ấy, cho đến lúc đi qua hiệu ảnh Đông Phong, cô mới quên
điều tai hại mà công viên đem lại cho mình.
Thái Tụ đứng ở hiệu ảnh Đông Phong không
chịu đi, ngắm mãi ảnh chụp những cô gái xinh đẹp trưng bày trong quầy. Chị tôi
lại không thích quầy trưng bày ảnh của hiệu ảnh, cứ phải dằn lòng dẫn cô ấy đi
xem. Thái Tụ nói cô ấy chưa từng chụp ảnh, lại nghe nói chụp ảnh phải trả tiền.
Chị tôi đoán được tâm tư của cô ấy, buồn
bã nói: “Mẹ tôi đưa cho tôi một đồng, nói là tiền để chiêu đãi bạn, chỉ có thể
chụp ảnh cỡ 3x4, nhỏ bằng cái móng tay này thôi”.
Thái Tụ giơ ngón tay lên xem một lát,
nói: “Như vậy thì nhìn không thấy, chụp cũng vô dụng, to hơn một chút có được
không?”
Chị tôi nói: “Cỡ nào cũng có, chỉ có điều
chị phải bỏ thêm tiền, chị có tiền không?”
Thái Tụ do dự một lát, ngắm nhìn người
đi lại trên đường phố, kéo chị tôi đến sát bên mình: “Bạn che cho tôi nhé”. Cô ấy
dặn chị tôi. Chị tôi bèn dùng thân che cho cô, nghe thấy cô ấy xuýt xoa vội lần
dây lưng quần, cuối cùng mò ra một cuộn tiền lẻ, quấn bằng chun.
Thái Tụ nói: “Mình có tiền! Trong bọn
con gái ở Cố Gia Trang, mình có nhiều tiền nhất”.
Họ trở về muộn như thế, chính là bởi vì
xếp hàng chụp ảnh ở hiệu ảnh Đông Phong. Đám thiếu nữ chụp ảnh đại đa số là
trang điểm, làm điệu làm dáng, lúc họ trở về vẫn bộ dạng như vậy. Thái Tụ mặc
chiếc áo sơ mi hoa thêu trên nền vải màu trắng của chị tôi, hai bím tóc dài cuộn
lại như đống phân ngựa, đặt trên đỉnh đầu. Tóc của cô ấy bây giờ giống hệt tóc
của chị tôi rồi. Có lẽ cũng cố ý không muốn lau sạch dấu son môi được hiệu ảnh
cung cấp, môi của Thái Tụ rất đỏ, trông như vừa mới từ sân khấu bước xuống, bộ
dạng hơi hưng phấn, hơi e thẹn. Do không hiểu rõ ý nghĩa của ảnh mẫu, tôi nghe
thấy cô ấy hỏi đi hỏi lại, có nhiều thiếu nữ chụp ảnh như vậy, hiệu ảnh có làm
lẫn lộn ảnh của cô ấy với người khác không, nếu ảnh của cô ấy trả nhầm cho người
khác thì làm thế nào đây? Tại sao lại như thế được chứ? Chị tôi bị cô ấy hỏi đến
mệt đến chán, trả lời không tránh khỏi cáu kỉnh: “Nói chị bao nhiêu lần rồi, lấy
ảnh ai cũng phải xem ảnh mẫu, có ai muốn lấy ảnh của người khác nào? Chị lại
không phải là mỹ nhân, người khác lấy ảnh của chị để làm gì nào?”
Tôi buộc phải sống chung một nhà với
Thái Tụ năm ngày. Tôi không cho rằng Thái Tụ chất phác như bố tôi nói, cũng
không cho rằng cô ấy có tâm kế như mẹ tôi bảo. ấn tượng mà Thái Tụ để lại cho
tôi trong thời gian năm ngày ấy cơ hồ như một ẩn số. Nói ví dụ: tôi không biết
rõ cô ấy vì sao ngồi bên bàn ăn thì ăn ít như vậy, trái lại nhân lúc trong bếp
không có người, lại mở lồng bàn đậy thức ăn. Giống như kẻ cắp, cô ấy ăn vụng củ
từ xào thịt, tôi nhìn thấy hai năm rõ mười, cô ấy dùng tay gạt củ từ ra chọn lấy
thịt ăn. Cô ấy ăn ngầm thức ăn không có gì là lạ, tôi cũng thường xuyên ăn vụng,
nhưng cô ấy ôm lọ đường trắng của nhà tôi vào trong lòng, động tác ăn ngầm đường
khiến tôi rất kinh ngạc. Tôi bèn hỏi cô ấy một câu rõ to: “Chị làm gì thế?” Tôi
làm cho Thái Tụ run sợ bắn người, lọ đường rơi xuống đất vỡ tan thành một đống
thủy tinh vụn, nửa lọ đường vãi tung tóe trắng mặt đất.
Thái Tụ sợ xanh xám mặt, cô ấy đứng ngây
người tại chỗ, mãi mới định thần lại, giậm chân thét tôi:
“Tôi làm gì nào? Trong lọ đường có một
con ruồi bay vào, tôi bắt nó ra”. Cô ấy trấn tĩnh rất nhanh, quỳ xuống đất, cẩn
thận hốt đường trắng vào một cái bát: “Cậu em không thể vu cho chị ăn vụng đường
trắng, dứt khoát không được bảo là chị nhé”.
“Ai vu oan chị? Em trông thấy chị ăn vụng
rồi”. Tôi đột nhiên coi khinh và căm thù cô gái nông thôn này, một câu nhận xét
tàn nhẫn buột ra khỏi miệng: “Người như chị, chỉ đáng lấy một lão bị động kinh
mà thôi”.
Thái Tụ không ngờ tôi có thể nói một câu
bạc mồm bạc miệng như vậy, cô ấy hoảng sợ trừng mắt nhìn tôi: “Ai dạy em nói
câu ấy?” Nhìn thấy trong mắt của cô có một tia sáng phẫn nộ, tôi đoán cô ấy sẽ
làm động tác nguy hiểm nào đó, muốn chuồn đi cũng không kịp. Thái Tụ hét lên một
tiếng, cô ấy cúi xuống, lao vào ngực tôi như một con dã thú. Tôi mất thăng bằng,
ngã phệt đít xuống ang nước nhà mình.
Sau sự kiện lọ đường, tôi không nói chuyện
với Thái Tụ nữa. Sau đó, cô ấy chắc là hối hận, có lúc cô ngả đầu vào người
tôi, có lúc tôi đi học, cô ấy còn ân cần vuốt phẳng phiu cổ áo cho tôi. Tôi
ghét cay ghét đắng bàn tay của cô ấy, bèn hất tay ra. Cô ta làm lành lùi sang một
bên, không biết là an ủi tôi hay là tự an ủi bản thân, nói: “Không sao, cậu em
ơi, không sao”.
Tôi đương nhiên không sao cả, chỉ có điều
mỗi khi đi học qua bảng tin tuyên truyền của nhà trường, nhìn thấy tấm ảnh của
Củng Ái Hoa thì bèn nghĩ đến Thái Tụ, hễ nhớ đến Thái Tụ là tôi cảm thấy trong
bảng tin tuyên truyền ấy hiện lên hình ảnh một người, đó là một người đàn ông
xa lạ, không có lưỡi, sùi bọt mép, thế là bảng tin tuyên truyền bỗng u ám tối sầm
lại.
Chị tôi lấy ảnh của chị và Thái Tụ về.
Hai người cứ như hoạt động bí mật quan trọng vậy, nấp ở trên gác xem. Tôi nghe
thấy hai người ở trên ấy vừa cười vừa đùa, Tấm ảnh làm cho chị tôi thất vọng
mãi, chị luôn cảm thấy người chụp ảnh bêu xấu chị. Nhưng tấm ảnh cỡ 3x4 lại làm
cho Thái Tụ vô cùng mừng rỡ, không chỉ liên quan đến dung nhan, mà có lẽ còn
liên quan đến cuộc đời. Tôi nhìn thấy hôm ấy Thái Tụ từ trên gác đi xuống,
gương mặt bánh mật tràn đầy một niềm vui bất ngờ không gì so sánh được. Sau đấy,
Thái Tụ mang theo niềm vui đi vào nhà bếp gọt củ từ. Chị tôi ngồi bên cạnh thay
than tổ ong vào lò, chị đột nhiên nghĩ đến người đàn ông bị bệnh động kinh, ngoảnh
lại hỏi Thái Tụ: “Bệnh động kinh như thế nào? Tại sao lại gọi là bệnh động kinh
nhỉ?”
Thái Tụ im lặng hồi lâu, có lẽ là đang
mong chờ chị tôi quên đi câu hỏi tổn thương đến người khác và cũng chẳng lợi gì
cho mình ấy, song chị tôi chẳng những không có ý bỏ cuộc, mà còn hỏi một câu
còn sâu hơn: “Người bị bệnh động kinh có hay đánh người không?” Lần này, Thái Tụ
không chút vội vàng đáp: “Không đánh người, vì sao anh ấy lại đánh người chứ?
Người ta không đánh anh ấy là tốt quá rồi”. Giọng nói của cô ấy nghe ra vô cùng
buốt giá. “Cậu đã thấy người bị bệnh dại chưa? Rất giống như con dê bị bệnh dại
ấy, ngã xuống đất, rút gân, chân co quắp, run tay, miệng sều nước dãi trắng”.
Thái Tụ nói đến đây bỗng cười gằn một tiếng, sau đó tiếng cười trầm hẳn xuống.
Lát sau, tôi nghe thấy Thái Tụ nói trong
nhà bếp: “Thực ra họ đều hồ đồ, mình lấy ai đều không sung sướng gì. Lấy anh ấy,
không phải mình khổ, mà cuộc đời của anh ấy càng khổ hơn”. Chị tôi nghe không
hiểu ý của cô, vẫn muốn hỏi đến cùng. Thái Tụ cầm mảnh sứ trong tay quăng xuống
đất, bưng mặt chạy ra khỏi nhà bếp, chạy lên gác.
Tôi không còn nhớ rõ đó là ngày thứ tư
hay ngày thứ năm sau khi Thái Tụ đến ở nhà tôi, chỉ nhớ rằng sẩm tối, cả gia
đình tôi và Thái Tụ đang ăn cơm tối, thì cô tôi bàng hoàng chạy đến, vừa đến đã
xua tay bảo Thái Tụ: “Đừng ăn nữa! Đừng ăn nữa! Mau lên nấp trên gác đi”.
Nguyên do là Trường Thọ, anh trai của
Thái Tụ đến rồi. Rõ ràng là cô tôi chưa được chuẩn bị đối phó với tình huống bất
ngờ xảy ra, đầu tóc cô ướt đẫm mồ hôi, cô đẩy Thái Tụ lên cầu thang, bảo chị:
“Anh trai cháu làm tôi sợ đến chết, anh ta ngồi ở cổng nhà tôi, mang theo một vỏ
bao phân hóa học, bên trong là một cuộn dây thừng đay to tướng, anh ta muốn đến
trói người đấy”.
Bố tôi đập bàn nói: “Giữa ban ngày ban mặt
mang thừng đến trói người, thế thì còn phép nước gì nữa, lôi hắn đến đồn công an
đi”.
Mọi người đều cảm thấy phẫn nộ với chiếc
dây thừng ấy, phẫn nộ qua đi rồi lại hốt hoảng. Xét đến cùng là chuyện gia đình
nhà người ta, không dễ đối xử với anh ta đâu.
Mẹ tôi nói với cô: “Nó nhận ra số nhà mà
đến, hay là đã ngồi ngoài cổng nhà tôi rồi?”
Cô tôi ngoài miệng phủ nhận khả năng ấy,
song trong lòng vô cùng lo lắng, trán vã mồ hôi vì cuống, vội lấy khăn bông lau
mồ hôi, đột nhiên trong mắt bốc ra ngọn lửa oán hận: “Củng Ái Hoa! Tất cả rắc rối
là do mày đấy”. Cô tôi gào lên: “Nó là người tốt, cái gì cũng ôm vào người,
thiên hạ đâu có chuyện ngon xơi như vậy, bất kể nó có về nhà hay không, ngày
mai tôi sẽ đưa Thái Tụ đến nhà nó. Trường Thọ biết nhà tôi, tôi biết nhà nó”.
Mọi người chưa ai tỏ thái độ. Bố tôi ra
hiệu cho cô tôi hạ thấp giọng xuống, không để Thái Tụ ở trên gác nghe thấy. Cô
tôi hạ thấp giọng, song do quá oán giận, cô tôi nói: “Không sợ nó nghe thấy,
không là người thân, không phải bạn bè, chúng ta đối xử với nó không chê vào
đâu được rồi”.
Đường phố Hương Xuân Thụ đương yên lành
bỗng dưng nổi gió bão, mẹ tôi bảo tôi ra ngoài cổng xem bên ngoài có người
không. Con chó vàng lớn của nhà ông thợ rèn đối diện đang ngồi ở cổng nhà tôi.
Tôi nhìn ra phía đông phố, xa xa trông thấy bóng người vây quanh cổng nhà cô
tôi. Cũng không biết là hoa mắt hay là quá mẫn cảm, tôi cứ thấy những người đứng
ở đấy chỉ trỏ về phía nhà tôi.
Chờ tôi trở lại phòng, cô tôi quyết định,
cô phải lập tức di chuyển Thái Tụ ra khỏi nhà tôi. “Mọi người đã thay tôi tiếp
đãi cô ấy mấy ngày rồi, không thể lại để liên lụy đến nhà anh chị nữa”. Cô tôi
nói: “Người nhà quê chẳng hiểu lý lẽ gì cả, nhỡ anh cô ấy đến gây sự, làm chuyện
bất ngờ thì tôi biết nói gì với anh chị nữa”.
Mẹ tôi hỏi: “Bây giờ đưa đến nhà Củng Ái
Hoa chứ? Chẳng phải Củng Ái Hoa đã về rồi sao?” Cô tôi nói: “Đêm dài lắm mộng,
miệng lưỡi của bà Thiệu Hưng và cô Tiền, tôi cũng không an tâm. Sớm muộn cũng
phải đưa đến, chẳng thà bây giờ đưa đến, Củng Ái Hoa không có nhà thì sợ gì
nào? Đều là cha mẹ chịu trận thay con cái mà. Tôi không lòng lang dạ sói, mà phải
công bằng, nên đến lượt cha mẹ Củng Ái Hoa chứa chấp Thái Tụ chứ”.
Cô đẩy xe đạp của bố tôi ra sân, cô muốn
trực tiếp chở Thái Tụ đến nhà Củng Ái Hoa ở ngõ Tiểu Liễu. Cô không đi cũng
không được, chỉ có cô biết nhà của Củng Ái Hoa. Mẹ tôi và cô bàn bạc nên đi xe
theo đường nào, làm thế nào có thể vòng qua cổng nhà cô, mà vẫn che mắt được
thiên hạ. Hai bà nhất trí cho rằng từ nhà máy gia công dầu mỡ xuyên qua ngõ Tiểu
Liễu là con đường hợp lý nhất. Để ổn thỏa hơn, mẹ tôi còn lấy ra bộ quần áo lao
động màu xanh, chuẩn bị cho Thái Tụ mặc.
Sau đó, tôi nghe thấy cô tôi gọi tên
Thái Tụ đang ở trên gác: “Thái Tụ ơi! Thái Tụ ơi! Xuống đi”. Cô tôi nói: “Chúng
ta đến nhà Củng Ái Hoa”.
Trên gác không có tiếng đáp. Cô tôi lại
gọi với lên gác: “Thái Tụ, Thái Tụ xuống đi! Đến nhà Củng Ái Hoa an toàn nhất,
anh cô không tìm thấy cô đâu”.
Thái Tụ im lặng khiến cho mọi người tụm
lại ở cầu thang, lo lắng ngẩng nhìn lên. Mẹ tôi nói: “Thái Tụ, không phải chúng
ta sợ chuyện gì, mà vì tốt cho cháu, anh cháu mang dây thừng đến, chúng bay làm
gì là chuyện anh em ruột thịt, đều là chuyện gia đình, chúng ta xen vào không dễ
gì”.
Cô tôi xem ra rất cuống, cô dùng khóa xe
đạp gõ gõ vào thang gác: “Thái Tụ, cháu xuống nhanh lên, anh cháu đến ngay đấy,
anh ta đến thì cháu cũng chạy không thoát, chúng ta đành phải trơ mắt nhìn anh
ta trói cháu đem về quê thôi”.
Cô tôi càng cuống bèn lên tiếng như dỗ
dành trẻ con. Cô không chĩa mũi dùi vào Củng Ái Hoa, trái lại thổi phồng những
ưu điểm của gia đình Củng Ái Hoa cho Thái Tụ yên tâm: “Nhà Củng Ái Hoa ở trong
ngõ nhỏ quanh co, anh cháu tìm không được đâu”. Cô tôi lại nói: “Bên cạnh nhà Củng
Ái Hoa lại có đồn công an, cô ấy lại là nhân vật tiên tiến, anh cháu dám đến
nhà cô ấy gây náo loạn, thì đồn công an sẽ trói anh ta lại”.
Thái Tụ mặt xanh mày xám xuống khỏi gác.
Cũng không biết cô ấy có khóc hay không. Cô cứ cúi mặt xuống, tỏ thái độ nghiêm
trang sau khi bị xúc phạm, cũng có thể nói là thái độ nhẹ nhàng sau khi bi
thương được gỡ bỏ. Tôi chú ý thấy cằm của cô ấy ươn ướt. Thái Tụ xách túi du lịch
tự làm lấy bằng da màu xám, chầm chậm bước xuống, đến bậc cuối cùng của thang
gác, tôi nhìn thấy cô ấy đột nhiên quăng túi du lịch, ôm bụng, ngồi bệt xuống bậc
cầu thang.
Chị tôi chạy đến dìu cô ấy: “Thái Tụ, chị
đau bụng phải không?”
Đầu tiên Thái Tụ gật đầu, sau trông thấy
mẹ tôi đã giở bộ quần áo lao động màu xám ra, cô ấy lại lắc đầu, đẩy chị tôi
ra, tự đứng lên, như tượng gỗ. Mẹ, cô và chị tôi vội vàng mặc quần áo lao động
cho Thái Tụ.
Chị tôi ngắm nghía Thái Tụ: “Thái Tụ, chị
đến soi gương đi, chị không giống chị nữa rồi”.
Kiến nghị của chị tôi bị mẹ và cô tôi
cùng lên tiếng phản đối: “Con còn bày vẽ chuyện gì nữa, bây giờ là lúc nào mà
còn bụng dạ soi gương nữa chứ?”
Thái Tụ mặc quần áo lao động rồi vẫn là
Thái Tụ, cô ấy không nói ra, bạn sẽ không biết trong lòng cô ấy đang nghĩ gì
đâu. Sau đó Thái Tụ đi theo xe đạp của cô tôi, chúng tôi đi theo họ, mấy người
cẩn thận đi ra phố. Nhìn ra phía đông phố, đống người tụ tập ở cổng nhà cô tôi
ngày càng nhiều, chứng tỏ nguy cơ bị lộ bí mật càng lớn.
“Đi nhanh lên”. Thái Tụ hình như được mọi
người chúng tôi nhấc lên ghế đèo hàng sau xe đạp. Thái Tụ ngồi lên xe đạp, tôi
mới biết cô ấy như người mất hồn, ấy là vì tấm ảnh.
“Tấm ảnh”. Cô ấy đột nhiên ngoái đầu lại
nói to với chị tôi: “Ảnh của tôi, chị làm thế nào mà gửi cho tôi?”
Tối hôm ấy, Trường Thọ quả nhiên đến cổng
nhà tôi. Anh ta gõ cổng, gõ cổng không có người ra mở, anh ta nắm tay đấm vào cổng,
vừa đấm cổng vừa gào toáng lên: “Thái Tụ! Mày ra đây, đồ chết tiệt kia”.
Sau đó mẹ tôi ra mở cổng, không phải để
cho anh ta vào, mà để bố tôi đi gọi người đến chi viện.
Bố tôi lẳng lặng túm lấy cái vỏ bao tải
phân hóa học, liếc nhìn sợi dây thừng bên trong bao tải, cười khẩy một tiếng:
“Cậu còn mang dây thừng đến trói người à? Chưa biết sợi dây thừng này cuối cùng
sẽ trói ai đây”.
Lúc tôi từ trên giường bò dậy, thì đám
người theo bố tôi đã đến. Một đám toàn đàn ông, có ông già, đến làm công tác
thuyết phục. Còn có mấy người là bạn của anh họ tôi, một tay anh chị trông như
lưu manh người to béo vạm vỡ. Vừa trông thấy đã biết họ đến để làm gì rồi. Tay
anh chị kéo Trường Thọ ra khỏi cổng, vừa kéo vừa chửi anh ta: “Mi, một lão nhà
quê, đã bán em gái như súc vật, lại còn dám đến đây gây sự à? Loại người như
mày, nên mua một miếng đậu phụ mà tự đập đầu chết cho rảnh”.
Trường Thọ thấp người, nhưng lại to khỏe,
bị nhấc ra khỏi cổng nhà tôi, rất nhanh lại ngoan cố xông trở lại: “Thái Tụ,
Thái Tụ, con chết tiệt ra đây cho tao”.
Anh ta bị đè nghiến xuống đất, song một
tay cố bám lấy cánh cổng nhà tôi, muốn toài vào bên trong, không đếm xỉa đến sự
chửi bới lăng nhục của người khác, cũng không phản bác, chỉ một mực réo tên của
em gái. Ánh đèn nhập nhoạng buổi hoàng hôn chiếu vào mặt anh ta, có thể nhận ra
anh ta rất giống Thái Tụ, mặt vuông, mũi tẹt, mắt lại rất sáng.
Cuộc hỗn chiến diễn ra khá lâu, cuối
cùng Trường Thọ im lặng, không im lặng cũng không được. Tay anh chị thấy dải
rút quần của anh ta tuột ra, bèn kéo tụt quần của anh ta xuống ngang đùi, đe nẹt
nói: “Mày còn gây sự thì sẽ cứ để như thế này dẫn đến đồn công an, mày sẽ bị bắt
về tội lưu manh”.
Trường Thọ cố sống cố chết kéo quần lên,
cuối cùng im lặng.
Tay anh chị không dừng lại, họ đẩy đi
kéo lại Trường Thọ, rồi lại bắt đầu mắng chửi anh ta: “Không lấy được vợ thì
thôi, người nhà quê chúng mày nuôi nhiều lợn như thế, chăn nhiều dê như thế sao
không biết làm lợn mẹ, làm dê mẹ thương con, mà lại gả em gái ruột thịt cho người
bị bệnh động kinh chứ?”
Rồi họ ném trả dải rút quần cho Trường
Thọ: “Mày dùng dải rút quần tự treo cổ mà chết quách đi”.
Trường Thọ không cãi lại, mắt lảng tránh
tay anh chị và mấy chàng trai nọ, tựa hồ những lời mắng chửi của họ đều là sự
thật. Anh ta cũng không nghe những lời giáo dục chính trị và đạo đức của những
cụ già, tựa hồ như họ đang tự giáo dục bản thân họ. Anh ta ngồi bệt trên mặt đất,
một chiếc dép bị ai đó đá đi đâu mất, Trường Thọ gạt từng cái chân của người,
tìm chiếc giầy Giải Phóng kia của mình. Chiếc giầy ấy ở ngay phía sau bố tôi,
Trường Thọ nhoài người nhặt chiếc giầy. Tay anh chị nhanh tay nhanh mắt hơn, liền
nhặt lấy, quăng ra xa: “Đi nhặt đi! Nhặt xong không được quay trở lại”.
Tay anh chị đẩy Trường Thọ một cái, bảo:
“Đi về phía đông, đến bến xe đường dài, trời sáng là có xe chạy, mày từ đâu đến
thì cút về nơi ấy cho khuất mắt chúng tao”.
Xem ra chiếc giầy nọ rất quan trọng đối
với Trường Thọ. Chúng tôi nhìn thấy Trường Thọ đứng bên cạnh tay anh chị, phẫn
nộ trừng mắt lườm bọn họ. Tay anh chị nói: “Mày trừng mắt nhìn chúng tao làm gì
nào? Giầy Giải Phóng vừa bẩn vừa hôi, mày không mau mau nhặt đi, thì chó nó tưởng
cứt nó ăn mất đấy”.
Trường Thọ thử đẩy tay anh chị một cái,
tay anh chị nhăn nhở cười: “Mày còn dám đẩy ông à, mày không muốn uống rượu mời
lại muốn uống rượu phạt à, gây sự nữa tao sẽ quẳng cả người mày đi chứ, mày tin
không nào?”
Trường Thọ đi nhặt chiếc giầy, anh ta bước
đi hơi tập tễnh, hơi giống bị đau khớp. Chúng tôi nhìn anh ta đi lượm giầy. Bố
tôi hơi không yên tâm, nói với tay anh chị: “Cậu dọa như vậy là đủ rồi, hành hạ
nó làm gì nữa?” Tay anh chị nói: “Hạng người nhà quê ấy, cần phải chuyên chính
vô sản, không chuyên chính được nó, chờ nó trở lại sẽ dọa tiếp”. Mọi người đều
tưởng Trường Thọ nhặt được giầy sẽ trở lại, nhưng vượt ngoài dự đoán của mọi
người, Trường Thọ chỉ dừng lại ở chỗ xa một lát, rồi đi về hướng đông thật. Anh
ta đi rất chậm, một bóng người thấp bé, chậm chạp di động dưới ánh đèn đường phố
Hương Xuân Thụ. Mọi người đều tưởng Trường Thọ bị thuần phục rồi, thì đột nhiên
một tiếng kêu thê thảm chói tai lại nổ tung từ xa: “Thái Tụ! Thái Tụ! Đồ chết
tiệt mày ra đây”.
Anh ta lại bắt đầu réo tên em gái, lúc
này là tiếng kêu dọc theo đường phố giữa đêm khuya, cho nên nghe rờn rợn, kèm
theo tiếng vọng từ thinh không. Tôi nhớ rất rõ, từ rất xa có thể vẫn nghe thấy
tiếng kêu nấc nghẹn của Trường Thọ, sau những tiếng nấc nghẹn ngào khiến mọi
người đồng tình, lại là tiếng kêu rờn rợn: “Thái Tụ! Thái Tụ! Đồ chết tiệt mày
ra đây, về nhà với tao”.
Mấy ngày sau, chị tôi đem ảnh đến ngõ Tiểu
Liễu. Vất vả lắm chị mới tìm ra nhà của Củng Ái Hoa, song không nhìn thấy Củng
Ái Hoa, cũng không thấy Thái Tụ, chỉ nhìn thấy bà của Củng Ái Hoa, qua cửa sổ
nhà bếp.
Bà của Củng Ái Hoa cũng đang cạo vỏ củ từ
ở trong bếp. Chị tôi nói chị vừa nhận ra đó là củ từ mang từ Cố Gia Trang đến,
mòng mọng, tròn tròn, đuôi màu phấn hồng. Nhìn thấy củ từ của Cố Gia Trang tức
là nhìn thấy người từ Cố Gia Trang đến. Nhưng, chị tôi không thể gọi Củng Ái
Hoa từ trên gác xuống. Bà của Củng Ái Hoa tóc bạc trắng đầu, có thể bà già đã lẩn
thẩn, cũng có thể vẫn còn thông minh tinh tường.
Từ ngoài cửa sổ, chị tôi nhìn vào bên
trong, bà lão lặng lẽ chăm chú nhìn ra bên ngoài, theo dõi cẩn mật chị tôi. Khi
chị tôi gọi tên của Củng Ái Hoa, bà già ấy mới lập cập đứng dậy: “Đừng gọi to
như thế! Hàng xóm có người đi làm ca đêm bây giờ còn đang ngủ đấy”. Cách cửa sổ,
bà già vội vàng xua tay nhắc chị tôi: “Củng Ái Hoa không có nhà, nó rất bận, lại
vừa đi lên tỉnh họp rồi”.
Chị tôi nói chị nhìn thấy mặt một cô gái
tóc ngắn chạy qua cửa sổ trên lầu, chị tôi nghi đó là Củng Ái Hoa, hơn nữa trên
chiếc giá phơi quần áo trên gác có một chiếc nịt vú màu hồng mà những phụ nữ trẻ
thường mặc, vẫn còn đang nhỏ nước, điều ấy càng làm cho chị tôi nghi ngờ hơn.
Chị tôi không biết vì sao Củng Ái Hoa lại không có nhà như vậy. Chị tôi đành phải
hỏi bà già về tình hình của Thái Tụ, bà già càng cảnh giác hơn, bà già hỏi chị
tôi: “Cô là ai? Từ đâu đến?” Câu hỏi đơn giản thôi mà làm cho chị tôi khó xử.
Chị không nói rõ mình là ai, cơn giận nổi lên, chị bèn quăng tấm ảnh của Thái Tụ
lên mặt chiếc bàn ở gần cửa sổ: “Cháu không rỗi hơi lo việc của người khác,
cháu là người đến trả ảnh”. Đã ném ảnh vào rồi, chị tôi vẫn chưa yên tâm, tiến
đến thềm cửa sổ, thò tay vào ngăn bà già, lấy lại một tấm ảnh từ trong bao giấy
nhỏ, nói: “Người ta chụp được tấm ảnh này không dễ dàng đâu. Thái độ của gia
đình cụ như thế này khiến cháu không yên tâm, xin giữ lại một tấm ảnh cho cô ấy
vậy”.
Sắp ra về, chị tôi mới nghe được tin tức
cuối cùng về Thái Tụ. Tin này do bà của Củng Ái Hoa tiết lộ, bà già tỏ ra nửa
tin nửa ngờ về chuyện của Thái Tụ, hoặc giả nói bà hoàn toàn hiểu nhầm vai trò
của Củng Ái Hoa trong việc này.
Từ trong cửa sổ nói vọng ra, bà già phê
bình chị tôi rằng: “Các người không nên coi Ái Hoa nhà ta như cái bia đỡ đạn,
chuyện phiền phức gì cũng tìm nó. Chuyện hôn nhân của con gái nhà người ta cũng
yêu cầu nó lo liệu ư? Các người không có lòng tốt, thấy Ái Hoa tiên tiến, cố ý
làm ảnh hưởng đến nó”.
Chị tôi bị bà già phê bình đến vò đầu bứt
tai, đứng tại chỗ trơ mắt nhìn. Bà cụ giận dữ ném đuôi củ từ ra, nói: “Cháu đừng
trợn mắt nhìn ta, chuyện của cô gái nhà quê ấy không thuộc phận sự giải quyết của
Ái Hoa nhà ta mà thuộc về Hội Liên hiệp phụ nữ giải quyết, cháu cần tìm cô ta
thì đến Hội Liên hiệp phụ nữ mà tìm”.
Tin Thái Tụ đi đến Hội Liên hiệp phụ nữ
là do chị tôi đem về.
Sau này, chúng tôi biết Thái Tụ đúng là
có đến phòng làm việc của Hội Liên hiệp phụ nữ thành phố. Bố của Củng Ái Hoa dẫn
cô ấy đi, ông cũng là cán bộ cơ quan, hiểu biết tường tận nhất cơ quan nào giải
quyết vấn đề gì, đơn vị cấp trên nào chủ quản đơn vị cấp dưới nào. Song, rất rõ
ràng, Hội Liên hiệp phụ nữ chỗ chúng tôi nhất thời không có cách nào giải quyết
nổi chuyện rắc rối của Thái Tụ. Bố của Củng Ái Hoa bảo Thái Tụ trực tiếp phản ảnh
tường tận tình hình của cô ấy với cán bộ Hội Liên hiệp phụ nữ, vì ông phải lo
đi làm. Ông còn vẽ cho Thái Tụ một tấm bản đồ đường về nhà mình, bảo cô tự tìm
đường về nhà.
Họ nói Thái Tụ hôm ấy ngồi ở trong trụ sở
của Hội Liên hiệp phụ nữ, ngồi rất lâu, cũng nói trong thời gian rất lâu, người
bên cạnh đều không biết cô ấy đang nói chuyện của mình, tưởng như cô ấy miêu tả
vụ hôn nhân của một người khác vậy. Sau đó, cô ấy bị dẫn ra khỏi trụ sở, song
cô không ra, cứ im lặng ngồi trên một chiếc ghế băng dài, nghe một đôi nam nữ
đòi ly hôn đang kể tội nhau, bới móc bí mật đời tư của nhau ở ngoài hành lang.
Cô ấy còn tới khuyên bên nữ mấy câu, khuyên gì người khác cũng không hiểu.
Sau đấy, khi cơ quan hội liên hiệp phụ nữ
hết giờ làm việc, chị em cán bộ đều ra về, một chị cán bộ ở phòng tiếp dân đi
qua cầu Sư Tử sắt, trông thấy cô gái từ Cố Gia Trang tới ấy đang ngồi ở dưới gầm
cầu Sư Tử sắt, vừa uống nước chè nóng giá một hào một cốc, vừa ngó đông nhìn
tây xem tấm bản đồ vẽ trên giấy viết thư nọ. Chị cán bộ xuống thuyền buôn gạo đậu
ở dưới gầm cầu mua một bao gạo, lúc từ thuyền đi lên về nhà, liếc nhìn quán nước,
vẫn thấy Thái Tụ ngồi ở đấy, song nỗi bi thương của Thái Tụ đã giống như ánh
bình minh lên xóa mờ đi. Thái Tụ cầm chén chè mà khóc, nhìn những người qua lại
trên cầu Sư Tử sắt mà khóc. Người chủ quán trà và những người đi đường nhiệt
tâm đều xúm quanh Thái Tụ, họ cho rằng cô gái nhà quê này đang khóc vì lá thư nọ.
Nhưng tờ giấy viết thư được mở ra, những người nhiệt tâm ấy nhìn thấy một tấm bản
đồ đơn giản vẽ nguệch ngoạc bằng bút bi. Chị cán bộ phụ nữ do dự một lát, cuối
cùng vẫn vội vàng về nhà nấu cơm tối, bởi vì chị nghe thấy có người nhiệt tâm đứng
lên nói: “Ngõ Tiểu Liễu ư? Cô cần đến ngõ Tiểu Liễu ư? Tôi biết, tôi dẫn cô đến
đấy”.
Hiện tại chúng tôi đều biết, sau đấy người
nhiệt tâm ấy đâu có dẫn Thái Tụ trở về nhà Củng Ái Hoa. Đây là một kết cục khiến
mọi người không thể hiểu nổi, cho đến bây giờ, những người có liên quan đến
chuyện này vẫn còn đang tranh luận, người dẫn đường ấy cuối cùng là ai? Cuối
cùng ông ta dẫn Thái Tụ đi đến đâu mất rồi. Sau đó Trường Thọ không tìm thấy em
gái, anh ta gây náo loạn ở nhà Củng Ái Hoa hai ngày, không thấy bóng dáng của
Thái Tụ. Củng Ái Hoa trước sau cũng không lộ diện, trái lại người của đồn công
an tới, chiểu theo những văn bản hữu quan, họ cưỡng bức áp tải Trường Thọ đến bến
xe khách đường dài, tống anh ta về quê.
Phía chúng tôi sau này không có ai trông
thấy Thái Tụ nữa, chị tôi có một hôm trở về nói với mẹ tôi, chị nhìn thấy một
cáo thị tìm người dán ở dưới gầm cầu Sư Tử sắt, cần tìm Thái Tụ.
Mẹ tôi nói: “Thái Tụ mất tích rồi, đương
nhiên phải dán cáo thị”. Song chị tôi òa khóc, vừa khóc vừa kêu: “Ôi tấm ảnh ấy,
tấm ảnh”.
Mẹ tôi bỗng hiểu ra, hiểu ra rồi mặt tái
xám tái xanh, nói: “Bây giờ mày lại biết khóc à? Tại mày dắt nó đi chơi, mày lại
cứ dắt nó đi chụp ảnh, tại sao cứ phải chụp tấm ảnh ấy chứ? Vì sao nào? Chụp tấm
ảnh ấy làm gì? Hử? Hử?”
Mẹ tôi xúc động vặn hỏi chị tôi, cũng
như tự hỏi mình đến phát khóc lên. Kết quả mà hai mẹ con suy diễn theo lô gích
thật trầm trọng, chị tôi thoát không khỏi liên can, vì vậy mẹ tôi về đạo nghĩa
chịu áp lực nặng nề. Nhằm giảm bớt áp lực, mẹ tôi tất nhiên phải trách cô tôi.
Kết quả cuối cùng có thể nghĩ ra, mẹ tôi và cô tôi cắt đứt quan hệ đi lại. Hai
gia đình chúng tôi ở gần nhau như vậy, cùng ở trên phố Hương Xuân Thụ, cô tôi
là em ruột của bố tôi, bố tôi là anh ruột của cô tôi, nhưng hai gia đình chúng
tôi lại cắt đứt quan hệ đi lại như thế.
Thái Tụ sau đấy lên một chiếc thuyền
buôn củ từ, trở về Cố Gia Trang. Tin này là xác thực, nên khiến gia đình nhà
tôi và gia đình cô tôi đều mừng rỡ một phen. Chỉ có điều trong mấy ngày bặt tin
Thái Tụ, cuối cùng cô ấy sống ở đâu, sống như thế nào, sống cùng với ai, những
chi tiết này trước sau vẫn là một nghi án không có đầu mối, đại gia đình chúng
tôi không rõ một tí nào.
Anh họ tôi nói sau này Thái Tụ thực hiện
lời hứa của gia đình, đã lấy người đàn ông trung niên bị bệnh động kinh ấy.
Khi về nhà nghỉ Tết nguyên đán, anh họ
tôi còn nói cuộc hôn nhân của họ không tồi. Anh đã trông thấy Thái Tụ và chồng
cô ấy đi chợ, vợ mua gà con, chồng mua cuốc xẻng, trên đường một người đi trước
một người đi sau.
Đến ngày Tết Lao động quốc tế 1-5 trở về,
anh họ tôi không chịu nhắc đến cái tên Thái Tụ nữa, hỏi mãi mới được tin khiến
mọi người kinh hoàng: Thái Tụ uống thuốc sâu tự sát.
Anh họ tôi nói, Thái Tụ chết rất có kế
hoạch, cô ấy phun thuốc trừ sâu trong vườn rau, phun xong thuốc trừ sâu, người
khác nhìn thấy cô ấy cầm cốc nhựa ngồi ở trong vườn, đều ngỡ cô ấy đang uống nước,
bèn hỏi: “Thái Tụ, vừa nhìn thấy chị uống nước, tại sao lại uống nữa?” Thái Tụ
nói: “Hôm nay trời nóng quá, khát chết người”. Thái Tụ uống nửa cốc thuốc trừ
sâu trước mặt mọi người.
Bên nhà cô tôi, bên nhà tôi đều choáng
váng bởi tin này. Anh tôi nói sang chuyện đồn đại ở nông thôn, có người nói khi
Thái Tụ chết có thể đã có mang, mọi người đều nghi đứa bé trong bụng Thái Tụ là
con hoang, không phải con của người đàn ông bị bệnh động kinh.
Cô tôi lập tức gào lên: “Bệnh động kinh
không ảnh hưởng gì đến sinh đẻ, không phải con của anh ta thì là của ai chứ?”
Sau đó mọi người đều im lặng. Nhớ lại
quãng thời gian Thái Tụ mất tích, nhớ lại cô ấy mang một bí mật trở về Cố Gia
Trang, bỗng không ai dám nói gì nữa. Mỗi người đều cố che giấu nội tâm hoảng loạn,
song không giấu được thái độ mang vẻ phạm tội của mình.
Sau đó, cô tôi bỗng đứng dậy, nói một
câu khiến mọi người được giải thoát. Cô tôi nói rằng: “Tự vấn lòng mình, chúng
ta không có lỗi, không hổ thẹn với Thái Tụ , Thái Tụ số nó khổ, chẳng trách người
khác được! Nếu có trách là trách Củng Ái Hoa, chẳng phải cô ta gây ra rắc rối
này ư? Thái Tụ cũng không đáng rơi vào kết cục bi thảm như vậy”.
Dân cư ở khu phố Hương Xuân Thụ này có
thói quen để ảnh của người thân bạn bè ở dưới tấm kính phủ trên mặt bàn. Tấm ảnh
của Thái Tụ luôn được đặt ở phía dưới tấm kính mặt bàn của nhà tôi, thường ngày
trên vị trí ấy đặt một lọ hoa giấy, lọ hoa giấy suốt năm che trên tấm ảnh của
Thái Tụ, như che đậy một bí mật đời tư, không nỡ bỏ đi, cũng không muốn để lộ
ra.
Chúng tôi có cuộc sống thường nhật bình
thường tẻ nhạt mà bận bịu nặng nề, ai còn vô cớ nhớ đến một cô gái nông thôn ở
Cố Gia Trang chứ? Chúng tôi cơ hồ đã quên bẵng Thái Tụ rồi.
Cho mãi đến năm ấy chuyển nhà, khi tôi
và chị tôi dọn dẹp những tấm ảnh để dưới tấm kính mặt bàn, đột nhiên nhìn thấy
tấm ảnh của Thái Tụ, nhất thời chúng tôi đều không nhớ ra người trong tấm ảnh
là ai. Tôi cố cẩn thận bóc tấm ảnh đã dán chặt vào tấm kính, lẩm bẩm tự hỏi:
“Người nào nhỉ, mặt sao quen thế?”
Chị tôi đột nhiên kêu lên: “Thái Tụ đấy!
Tại sao ảnh của chị ấy còn để ở dưới này nhỉ?’
Thế là, tôi nhớ đến Thái Tụ, chẳng hiểu
vì sao, nhớ đến Thái Tụ là tôi lại nhớ đến củ từ. Hồi nhỏ tôi không thích ăn củ
từ, nhưng củ từ xào thịt tôi lại thích. Bây giờ đã vào tuổi trung niên, tôi
không ăn củ từ, củ từ xào thịt cũng không ăn nữa.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
namkts57@gmail.com