Truyện ngắn dịch
       
Thơ
       
Thơ dịch Truyện ngắn khuyết danh Truyện ngắn Truyện dịch cực ngắn
       
31/5/12

Trường hợp trùng tên - Eduar Dverkin

Trường hợp trùng tên
Eduar Dverkin

            Khá hài lòng với kỳ thi học kỳ, Insu đáp máy bay từ Leningrat về quần đảo Xakhalin xa xôi; và chẳng bao lâu sau, chàng đã đứng trước cửa nhà mình. Từ ngoài sân, chàng thấy đứa em trai đang ôm con mèo xù to như một con báo, đôi mắt nó láu liêng liếc nhìn con cá khô treo chỗ cây ngưu bàng ngoài hiên nhà. Đứa em trai buông con mèo, mừng rỡ đón anh mình.
            Con mèo chớp thời cơ lao vút về phía cây ngưu bàng rồi nhẹ nhàng rơi xuống không gây ra một tiếng động.
            - Khisu ơi, mau mau báo cho tụi bạn anh hay tin... Anh có đem về mấy chai whisky Scotland. Kêu tụi nó tới cho tụi nó thử rượu ngoại... Lấy xe đạp đi cho nhanh, em!
            Đứa em lập tức biến mất. Còn lại một mình, chàng sinh viên thành Leningrat mỉm nụ cười buồn nhưng hạnh phúc. Cha mẹ đang đi làm. Chàng cởi veston, cả sơ mi và cà vạt liệng vào góc phòng rồi trải tấm chăn bông xuống sàn nhà, lăn ra ngủ. Chuyến bay dài xuyên qua một đất nước rộng lớn làm chàng thấm mệt.
            Chiều, nhóm bạn họp lại ngồi bên mấy chai whisky. Dù trước kia khá thân thiết, nhưng giờ đây dường như giữa họ có một khoảng cách vô hình nên không khí ít cởi mở. Insu mặc sơ mi vẫn thắt hờ chiếc cà vạt theo kiểu người thành thị. Chàng đang kể cho bạn nghe về Leningrat với bao danh lam thắng cảnh, ở đó hiện giờ đang là những đêm trắng, cùng những sinh hoạt văn minh, thơ mộng, như đọc sách trong Vườn Mùa hè, câu cá trên sông Nhêva... Rồi quay sang người bạn có tên là Bônggi, chàng nói:
                   - Vậy mà chỉ còn mỗi mình mình ăn cá. Đôi lúc nghĩ, thấy buồn...
            Đó là một câu bóng gió, bởi trước kia Insu và Bônggi cùng đến Leningrat, cả hai thi vào trường Bách khoa và cùng học được một năm. Rồi Bônggi quyết định chia tay thành phố thơ mộng nằm bên sông Nhêva, quay về Xakhalin cưới vợ, gác lại cả thế giới đang rộng mở và những kiến thức lớn lao đang chờ đợi anh. Vợ Bônggi là một cô gái nhỏ thó, õng ẹo, tục danh Lixixa (1). Sở dĩ người ta gọi cô như vậy bởi từ nhỏ cô là đứa bé không bình thường. Cô hay thơ thẩn ngoài đồng hoặc loanh quanh dọc bờ biển, đôi khi lại trốn trong nhà kho của một người láng giềng... Nhưng khi lớn lên, cô trở nên dễ coi lạ. Lúc ấy nhiều chàng trai tới lui đặt vấn đề, Lixixa từ chối và lẩn tránh tất cả những kẻ để ý mình, trong số đó có anh chàng Bônggi nói lắp và nhút nhát.
            Bônggi nhỏ người, vai hẹp, nhìn cuộc đời với đôi mắt đen ngơ ngác như sợ sệt. Anh cũng không hy vọng lọt được vào mắt xanh của Lixixa, bởi anh biết mình chẳng thể so cựa nổi với ai. Vì vậy khi đến Leningrat, Bônggi có viết cho Lixixa lá thơ từ biệt. Ngay sau đó Bônggi nhận được hồi âm của cô với nét chữ to, rõ ràng bằng mực học trò, đâu khoảng mười dòng; đại ý cô rất cảm động với lá thư từ phương trời xa, rằng nó đến với cô như tia phản chiếu của ánh mặt trời trên đỉnh núi; và rằng Bônggi đừng hiểu lầm cô mà cho tình yêu của mình là tuyệt vọng...
Bônggi không còn biết trời đâu đất đâu. Anh hạnh phúc đến độ định... nhảy từ cầu Anhicốp xuống sông Nhêva để kết liễu đời mình, nhưng may mà Insu kịp ngăn anh. Nhân đó Insu còn vạch cho Bônggi thấy sự đỏng đảnh và gian trá của Lixixa, cho đó là những lời lừa phỉnh. Insu không nằm trong số người ái mộ Lixixa, chàng luôn có ác cảm với cô, cho rằng cô chỉ đáng là loại phụ nữ chỉ biết đẻ con và nô lệ chồng. Chàng khuyên Bônggi đừng nghĩ tới Lixixa nữa, coi chừng sập bẫy cô ta!
            Song mọi chuyện diễn ra không như ý muốn của Insu. Học xong năm thứ nhất, Bônggi về quê nghỉ hè rồi cưới Lixixa, không bao giờ trở lại Leningrat nữa. Anh mở một tiệm điện nguội ở gần mỏ, và năm sau Lixixa sinh con trai.
            Đám bạn cũ tiếp tục hàn huyên. Insu nói luôn miệng. Chàng kể về những cây cầu mở, về những buổi hừng đông trên sông Nhêva, và khoảng không bao la của đất nước mà xuyên qua khoảng không ấy chiếc máy bay của chàng chỉ nhỏ bé và chậm chạp như một con chuồn chuồn. Bạn bè chăm chú nghe chuyện chàng. Insu nhìn họ thông cảm, bởi ngoài Bônggi, chưa ai ra khỏi vùng đất Nam Xakhalin này. Ba năm chàng vắng mặt, họ đã kịp cưới vợ, đẻ con, mà Bônggi là người có con sớm nhất; anh còn kịp nhận thêm tục danh: Bônggi "cha".
            - Cuộc sống của mình bây giờ là vậy, - Insu kết thúc - còn các bạn, có gì mới không?
Khách đưa mắt nhìn nhau im lặng. Sau đó một người lên tiếng: Tối ngày làm việc bù đầu dưới mỏ thì mới mẹ gì!
            - Có chớ. Tụi tao đã sắm xe gắn máy - Một người khác bổ sung - Thậm chí thằng Hoan còn kịp bán đi...
            - Sao bán vậy, Hoan? - Insu hỏi.
            - Cũng... hổng có gì! - Hoan lầu bầu rồi ngậm tăm.
            - Chuyện có hơi ly kỳ và rùng rợn... - Ai đó bắt đầu kể - Thằng Hoan mua lại của ông Jadaba chiếc Uran loại có thùng. Chắc mày chưa biết, Jadaba bị chết trôi hồi năm ngoái. Đêm nọ thằng Hoan chạy xe ngang qua cầu thì thấy có người đứng vẫy tay xin đi nhờ. Hoan dừng xe, người ấy ngồi lên phía sau rồi bất thần bóp cổ nó... Lúc ấy trăng vừa lên và thằng Hoan nhận ra người đó là Jadaba! Nó són đái, cắm đầu cắm cổ chạy. Sáng hôm sau tụi tao tới thì thấy chiếc Uran dựng dưới dạ cầu...
            Nghe xong, chàng sinh viên nghi ngờ lắc đầu:
            - Mới uống chút xíu mà say rồi sao? Bộ quý vị tưởng mình điên à. Toàn chuyện tào lao!
            - Không tin mày hỏi thằng Hoan coi. Ối, whisky ngoại nhẹ hều thì thấm tháp gì với dân mỏ tụi tao. Bao nhiêu đây chỉ đủ nhỏ lỗ mũi. Còn chiếc Uran thì tụi tao phải xúm nhau mới khiêng nổi lên cầu...
            - Quý vị ơi, bây giờ là thế kỷ hai mươi rồi, thế kỷ của ánh sáng. Liệu có thể tin những chuyện như vậy...
            - Ai không tin chớ tui tin. Sẵn kể luôn chuyện này cũng xảy ra ở Xakhalin mình: Một đêm khuya, bác tài taxi về muộn. Một cô gái dừng trong góc tối vẫy xe lại nói địa chỉ rồi ngồi lên phía sau. Bác tài dòm vô kính chiếu hậu định chiêm ngưỡng dung nhan cô gái mà số phận đã trao cho bác vào đêm khuya buồn. Lạ, không thấy cô gái trong kính. Bác quay đầu lại. Cô gái vẫn ngồi đàng sau. Bác dụi mắt nhìn vô kính lần nữa. Tất cả hiện lên chỉ trừ cô gái. Vì bác tài còn khá trẻ nên không nghĩ đến chuyện ma, chứ nếu già, bác sẽ đoán ngay số phận đã trao ai cho bác. Mặc kệ, bác cứ chở cô gái tới địa chỉ cần thiết. Xe dừng lại bên ngôi nhà gỗ tồi tàn kiểu Nhật. Cô gái biểu bác tài chờ để cô vô nhà lấy tiền. Chờ khá lâu, bác tài tức tối bước vào nhà. Chỉ thấy ở đó hai ông bà già lọm khọm. Bác tài hỏi cô gái đâu? "Cô gái nào? Ở đây chẳng có cô gái nào cả”. Bác tài mới thuật lại đầu đuôi... Đến lúc ấy hai ông bà già quỳ xuống sàn nhà mà khóc. Hóa ra đó là đứa con gái của họ, cô chết đã ba năm trước; và hôm ấy là ngày giỗ của cô nhưng họ lại quên...
            - Stop! Đủ rồi! - Chàng sinh viên như bị xúc phạm - Nói thiệt các bạn đừng giận, chớ ba cái chuyện mê tín dị đoan đó xưa rồi. Không phải mấy năm nay được học hành đàng hoàng rồi mình đâm ra tự cao tự đại đâu. Sự thật là tụi mình đang sống trong thời đại khác, thời đại của tư duy chính xác và của toán học. Quý vị đã biết thế nào là tia la de chưa? Và cái gì bỗng chốc từ mặt đất vọt tuốt lên cung trăng?
            Insu nói như rít rồi đấm mạnh nắm đấm xuống bàn. Chàng mệt mỏi tháo rộng chiếc cà vạt dưới gầm bàn, con mèo xù đang thiu thiu ngủ, chốc chốc lại mở đôi mắt xanh nhìn chăm chăm vào cái cà vạt màu bạc đang đung đưa của chủ, giống như một con cá. Khi nắm đắm nện xuống, con mèo bỗng hoảng loạn. Trong trạng thái mơ màng nó chợt gào lên, rồi như một viên đạn, nó bay thẳng vào Insu, đưa những móng vuốt tóm lấy cái cà vạt, toàn thân va mạnh vào vai chàng rồi theo đà bay ra cửa. Chàng sinh viên cũng sợ hãi gào lên, tiếng gào còn lớn hơn tiếng của con mèo. Chàng ngã ngửa ra sau làm mấy vỏ chai lăn ngổn ngang trên sàn nhà.
            Đám bạn thợ mỏ cười ầm. Khi tiếng chai lọ thôi va chạm và tiếng cười cũng ngừng, ai đó đỡ chàng sinh viên dậy, chỉ vào mảng rách chỗ cổ áo sơ mi của chàng, vừa cười vừa giải thích trong khi mặt chàng hãy còn xanh lét:
            - Đó là hình phạt về cái tội mày coi thường tụi tao, không tin những gì tụi tao kể. Nên nhớ rằng, ở đây là Xakhalin chớ không phải Leningrat của mày đâu nghen, Insu. Tất nhiên tụi tao chẳng cần biết cái gì bỗng chốc từ mặt đất vọt tuốt lên cung trăng, nhưng về cái vụ tia la de thì thằng Hoan đây là chuyên gia thứ thiệt! Nó còn học được cả cách đánh bắt cá bằng tia la de...
            - Tia la de thì liên quan gì đến cá? - Chàng sinh viên hỏi với nụ cười mỉa mai.
            - Liên quan chớ. Thằng Hoan kiếm ở đâu được ba ký lô tia la de, nó giăng từ đảo Côba đến mũi Traikinô, con cá xấu số nào đâm đầu vô cái tia đó kể như được sấy khô ngay tức khắc, chỉ việc gỡ đem về làm mồi... nhậu! Ha ha...
            Đám bạn thợ mỏ đùa giỡn đến gần nửa đêm. Họ vui vẻ và hài lòng từ giã chủ nhà. Chàng sinh viên bước ra tiễn họ. Hai người lúc đến bằng mô tô thùng đề nghị đưa những người còn lại ai về nhà nấy. Insu và Bônggi thì đang to nhỏ tâm tình. Rồi không hiểu sao Insu lại leo lên thùng xe ngồi cùng với Bônggi “cha”. Trong đêm hè ấm áp, trên đường đi họ hát vang, át cả tiếng máy xe.
            Bônggi cùng Insu xuống xe cạnh nhà anh.
            - Bônggi nè, mình hỏi thiệt, bỏ học cậu có tiếc không? - Insu hỏi.
            - Lẽ ra thì không nên bỏ... phải không? - Chàng cựu sinh viên lắp bắp.
            - Ôi, cậu thật là... - Insu thốt lên rồi vỗ vai bạn - Cậu còn nhớ lần tụi mình học bài thi trong khu Vườn Mùa Hè không? Sau này mỗi lần tới đó là mình nhớ đến cậu...
            - Dường như trời sinh ra tao không phải để học. Bônggi “cha” nói - Mày hãy ráng học đi, học cho mày và cho cả tao nữa.
            - Thôi im đi! - Đã ngà ngà say, Insu giận dữ la lớn, chút nữa thì chàng để rơi nước mắt vì buồn thương cho bạn.
            Bônggi “cha” đề nghị ghé vào nhà anh chơi, và nếu muốn thì họ có thể ngồi lai rai tới sáng cũng được vì Lixixa, vợ anh, đã về nhà cha mẹ ruột ở Nheben; ngày mai anh lại là ca chiều...
            - Không đời nào, - Insu nói - không đời nào tôi vào nhà Lixixa, kẻ đã tước mất bạn của tôi. Có thể một lúc nào đó nghĩ lại, tôi sẽ ghé. Còn bây giờ thì... Thôi, tạm biệt cậu, Bônggi “cha"!
            Insu đột ngột từ giã bạn. Và chàng đi, miệng khẽ huýt sáo giai điệu mà lúc nãy họ cùng hát khi ngồi trên mô tô: “...Trong tán cây xanh của đời, chúng tôi, những đứa trẻ rong chơi...”.
            Những gì xảy ra sau đó chúng tôi được biết qua lời kể của Khisu, đứa em trai mười tuổi của chàng. Trong giây phút hoang mang cực độ, chàng đã thuật lại hết cho đứa em trai của mình nghe, ngoài ra không hề hé môi với một ai.
            Sau đây là những gì Khisu kể lại: Sau khi từ giã Bônggi "cha", Insu băng qua khu bãi nhị tì cũ của người Nhật để về nhà. Trăng chiếu sáng. Đêm hè ở Xakhalin yên lặng. Nghe rõ cả tiếng của những sợi dây tời khua ngoài cảng xa. Đến giữa bãi nhị tì thì bất ngờ xuất hiện con vật nhỏ, qua ánh trăng chàng nhận ra đó là con cáo. Con cáo chạy ra từ một ngôi mả đá phía bên trái. Chàng sinh viên đứng lại, bình thản nhìn con cáo rồi đi tiếp, đầu nghĩ ngợi mông lung. Khi thoát ra khỏi sự suy nghĩ, chàng nhận ra mình đang đi về hướng ngược lại, ngôi mả đá giờ đã nằm bên phải. Chàng tự rủa thầm rồi quay lại. Lập tức một ý nghĩ khác lại bám lấy chàng. Chàng cứ đi, rồi một lần nữa ngôi mả đá lại nằm phía bên phải. Cứ như vậy cho đến khi Insu không còn xác định ra phương hướng. Cuối cùng, lấy hết can đảm, chàng chạy càn ngang bãi nhị tì với hy vọng sẽ tìm thấy con đường quen, nhưng cứ càng chạy thì càng lạc sâu vào mê cung của bãi nhị tì. Tại đây, cách chàng không xa, con cáo đang thập thò trong bóng tối của ngôi mả đá, nhếch môi nhìn chàng như cười. Insu giận dữ lượm viên đá ném con cáo. Viên đá chạm vào ngôi mả đá tóe lửa. Con cáo biến mất.
            Trái tim chàng sinh viên gần như nhảy ra ngoài. Chàng chạy lòng vòng trong bãi nhị tì, lúc lúc lại nhìn thấy con cáo, khi thì ung dung băng qua trước mặt, khi ngồi bên ngôi mả đá nhe hàm răng trắng nhởn ra cười với chàng. Cuộc chơi trốn tìm ấy diễn ra suốt phần còn lại của đêm, cho đến khi bình minh lên, chàng mới hoàn hồn và xác định được phương hướng.
            Khi Insu về đến nhà thì nắng đã chiếu khắp nơi. Chàng bước vô phòng đánh thức đứa em, kể hết cho nó nghe, sau đó chẳng kịp cởi quần áo dài, chàng lăn ra ngủ như chết.
            Lát sau Hoan ghé vào chỗ hai anh em nhà Insu, định cho họ hai con cá bơn nhám vừa câu được dưới biển. Khisu nhìn người anh còn đang ngủ và kể hết lại cho Hoan nghe. Nghe xong, Hoan trề môi, cau mày rồi ra về, quên để lại cho bạn hai con cá.
            Trên đường về, Hoan đánh một vòng qua nhà Bônggi “cha”. Từ xa anh đã nhìn thấy Lixixa đang phơi quần áo. Hoan hỏi chị về hồi nào, chị trả lời mới về bằng chuyến xe buýt đầu tiên. Đứa con chị bị bệnh, cả đêm không ngủ, định đem nó đi thầy thuốc nhưng anh chồng còn ngáy, không tài nào dựng dậy được. “Dường như các anh lại uống, phải không?” - chị hỏi.
              Hoan kể cho chị nghe, Insu về nghỉ hè, có mang về mấy chai rượu ngoại nên họ đã uống chút đỉnh...
            Nghe vậy Lixixa vỗ tay:
            - A, té ra chàng công tử thành Leningrat đã về! Được rồi, thế nào cũng phải bắt anh chàng khoác lác nghe chơi!
            Nói xong, Lixixa quay vào nhà. Hoan đi tiếp, mắt chăm chú nhìn phía trước. Mải nghĩ ngợi, anh không hay đuôi hai con cá bơn nhám đang kéo lê dưới lớp bụi đường...

(1) Lixixa: tiếng Nga có nghĩa là con cáo (chồn).

Ý cao tình đẹp - Fulton Oursler

Ý cao tình đẹp
Charlers Fulton Oursler

            Ngày cô bé Joan Grace đẩy cửa bước vào tiệm của Pierre Richard thì Pierre là con người cô độc nhất thành phố. Có lẽ hồi ấy các bạn đã được nghe phong phanh câu chuyện đó. Nhưng báo chí không nêu tên mà cũng không kể chi tiết nên hôm nay tôi xin thuật lại tường tận.
             Pierre đã được ông nội để lại cho một cửa tiệm bán đồ cổ. Trong cái tủ kính nhỏ xíu anh chất đủ các thứ đồ kỳ cục: vòng, mề đay đeo vào dây chuyền có từ thế kỷ trước, nhẫn vàng, hộp bạc, ngọc thạch hoặc ngà chạm trổ, tượng nhỏ bằng sứ.
            Buổi chiều mùa đông hôm đó, một em gái đứng áp trán vào tủ kính, trố mắt ngó kỹ từng vật cổ lỗ đó như muốn kiếm một vật gì. Bỗng em ngửng đầu lên, vẻ khoan khoái rồi đẩy cửa bước vào tiệm.
            Tiệm tối tăm mà còn bừa bãi hơn mặt tiền nữa. Có những ngăn tủ muốn sập vì chất quá nặng: hộp đựng tư trang, súng lục cũ không còn dùng được nữa, đồng hồ chuông đèn; còn trên sàn thì chất đống nào là giá để củi trong lò sưởi, đờn măng-đô-lin và những đồ cũ kỹ khó mà phân loại được.
            Pierre ngồi ở sau quầy. Mặc dầu mới ngoài ba mươi mà tóc của anh đã hoa râm. Anh ngó cô bé.
            Em hỏi:
            - Thưa ông, con có thể coi chuỗi ngọc lam bày ở tủ kính không ạ?
            Pierre kéo tấm màn, lấy chuỗi ngọc ra đưa cho cô bé xem. Những viên ngọc lam chiếu rực rỡ trong bàn tay xanh xao của anh. Em đỡ lấy, thốt lên lời khen:
            Đẹp quá! Xin ông gói lại thành một gói đẹp cho con.
            Oierre lạnh lùng ngó em:
            Có ai sai em đi mua hả?
            Thưa không. Con mua cho chị Hai con. Chị đã nuôi nấng con từ khi má mất. Đây là lễ Noel đầu tiên chị em con được ở gần nhau. Con muốn tặng chị một món quà đẹp.
            Pierre nghi ngờ hỏi:
            - Em có bao nhiêu tiền?
            Em mở khăn tay ra, đổ lên bàn một nắm bạc xu, bảo:
            - Con đã đập con heo của con ra đấy.
            Pierre Richard ngó em, vẻ trầm tư. Rồi anh ý tứ cầm chuỗi ngọc lên, sợ em trông thấy giá tiền. Nói thẳng cách nào cho em biết được? Cặp mắt xanh đầy tin tưởng của em gợi cho anh nhớ lại vết thương lòng thời trước.
            Quay lưng lại em, anh bảo:
            - Em đợi một chút nhé.
            Rồi vừa lúi húi làm một việc gì đó, anh vừa quay lại hỏi:
            - Em tên gì?
            - Thưa, Joan Grace.
            Khi quay lại thì trong tay anh đã cầm một gói nhỏ bao bằng giấy lụa đỏ và cột bằng một băng lụa màu xanh lá cây. Anh đưa cho em bé và bảo:
            - Này, coi chừng em đừng đánh rơi nhé.
            Em Joan mỉm cười rạng rỡ, chạy vụt về nhà. Anh nhìn theo, một nỗi buồn mênh mông dâng lên trong lòng. Em nhỏ đó và chuỗi ngọc lam khêu gợi lại một vết thương lòng không bao giờ lành hẳn của anh. Tóc em vàng như lúa chín, mắt em xanh như nước biển; mới mấy năm trước, anh đã yêu một thiếu nữ cũng có mớ tóc đó, cặp mắt đó. Chuỗi ngọc đã tính để tặng nàng.
            Nhưng một chiếc cam nhông trượt bánh trên con đường trơn trợt một đêm mưa đã làm tiêu tan ước mơ.
            Từ đó anh sống cô độc, ôn lại hoài nỗi khổ tâm. Anh ân cần lễ độ tiếp khách, nhưng ngoài công việc ra, anh thấy đời trống rỗng vô nghĩa một cách khủng khiếp. Lầm lì, không giao thiệp với ai, anh ráng quên mà không quên được, nỗi thất vọng như sương mù cứ mỗi ngày mỗi dày đặc.
            Cặp mắt xanh của em Joan Grace gợi cho anh hình ảnh người yêu. Vào dịp lễ này, khách hàng tới đông, ai cũng bộc lộ niềm vui làm cho anh càng đau lòng. Khách qua đường bước vào tiệm, chuyện trò, sờ mó các món đồ, trả giá lăng xăng. Đêm Noel đã khuya rồi, khi người khách cuối cùng bước ra, Pierre Richard thở phào nhẹ nhàng. Thôi thế là qua được năm nay. Nhưng anh đã lầm.
            Cửa thình lình mở ra, một thiếu nữ xông vào. Anh thấy nhói ở tim: thiếu nữ có vẻ mặt quen quen nhưng anh không nhớ rõ đã gặp ở đâu, hồi nào. Tóc cô vàng hoe, mắt xanh thăm thẳm. Cô im lặng lấy trong túi xách ra một gói nhỏ bao vội vàng một thứ giấy lụa đỏ, lại có cả cái băng lụa màu xanh lá cây đã mở ra rồi. Và những viên ngọc lam chiếu rực rỡ trên bàn:
            Chiếc chuỗi ngọc lam này có phải của tiệm ông không?
            Pierre ngước mắt lên nhìn cô, nhẹ nhàng trả lời:
            - Phải.
            - Phải ngọc thật không?
            - Nhất định rồi. Không phải thứ ngọc quý nhất nhưng ngọc thật đó.
            - Ông có nhớ đã bán cho ai không?
            - Bán cho một cô bé. Tên em là Joan. Em mua để tặng quà Noel cho chị Hai của em.
            - Giá bao nhiêu?
            Pierre nghiêm mặt đáp:
            - Tôi không khi nào nói giá tiền khách hàng đã trả cho tôi.
            Em Joan chỉ có ít đồng tiền tiêu vặt làm sao em có đủ tiền mua chuỗi ngọc này?
            Trong lúc đó, Pierre vuốt kỹ lại tờ giấy lụa, gói lại chuỗi ngọc. Anh bảo:
            Em đã trả đắt hơn hết thảy các người khác. Có bao nhiêu tiền em đưa tôi hết.
            Hai người làm thinh. Cửa hàng bỗng tĩnh mịch lạ thường. Tiếng chuông từ một giáo đường ở gần đó bắt đầu đổ, văng vẳng đưa lại. Cái gói nhỏ đặt trên bàn, vẻ thắc mắc dò hỏi trong cặp mắt thiếu nữ và cảm giác hồi sinh kỳ dị dồn dập dâng lên trong lòng Pierre, tất cả những cái đó đều là do tình yêu của một em nhỏ.
            Nhưng sao ông lại làm như vậy?
            Pierre vừa đưa gói nhỏ đó cho cô vừa trả lời:
            Hôm nay là ngày Noel. Tôi bất hạnh không có ai để tặng quà. Cô cho phép tôi đưa cô về nhà và chúc cô một lễ Noel vui vẻ với gia đình nhé!
            Thế là trong tiếng chuông đổ hồi, giữa một đám đông vui vẻ, Pierre Richard và một thiếu nữ mà anh chưa biết tên, cùng nhau bước qua một ngày mới đem lại nguồn hy vọng tràn trề trong lòng mọi người.

Thám hiểm dòng sông - Nguyễn Bính

Thám hiểm dòng sông
Nguyễn Bính

            Trời vừa sáng thằng Sùng và mấy đứa nữa đã kéo đến. Sùng thì thầm vào tai tôi ra chiều bí mật:
            - Đi chơi với bọn này không?
            - Đi đâu? - Tôi hỏi lại.
            - Bí mật, nhưng mà hay lắm.
            Tôi lưỡng lự.
            - Đi chứ? Hay lắm! - Sùng nói tiếp.
            Tôi vẫn không nói gì. Sùng nói to hẳn chứ không còn thầm thì như trước:
            - Có chỗ hay người ta mới rủ đi xem, không đi thì thôi lại còn kênh kiệu.
            Sùng toan bỏ đi.
            - Đi đâu mà hay? - Tôi hỏi.
            - Đi xem Thác Tiên. Chưa ai được biết nơi này.
            - Chưa ai biết mà dám nói là hay, có chăng là nói dối.
            - Hay thật mà, tao đến rồi, mới đứng ở ngoài nhìn chứ chưa vào trong, đẹp và có nhiều điều lạ lắm.
            - Thác Tiên có xa lắm không?
            - Không xa lắm, ngay chân núi Pum Cọ.
            - Để tao vào xin phép mẹ tao cái đã, chúng mày đứng đợi tao một lát.
            Mẹ tôi đồng ý và dặn:
            - Về sớm đấy!
            - Vâng ạ! - Tôi đáp.
            Đi được một đoạn bỗng tôi thấy hoài nghi về cái hay lắm của thằng Sùng, với nó cái gì chẳng hay, chẳng tuyệt nhất trần đời, nhưng lỡ đồng ý đi cùng bây giờ trở lại chắc chắn bọn chúng sẽ cười cho, ngày mai có khi chẳng đứa nào còn thèm làm bạn với tôi nữa.
            - Chúng ta đi đâu đây? - Tôi hỏi Sùng.
            - Đi về phía thượng nguồn dòng sông. - Sùng nói.
            - Sao bảo đi Thác Tiên.
            - Đúng là đi Thác Tiên, nhưng tao cũng không chắc lắm, nghe nói ở đó có một bãi đá tuyệt đẹp, ngày xưa là nơi các nàng tiên xuống tắm. Tao đoán là có thác. Hôm nọ đi ngang qua chỉ nhìn thấy bên ngoài, chưa biết bên trong thế nào...
            Đúng là cái thằng chỉ giỏi nói khoác, cái gì cũng nhất, cái gì cũng tuyệt vời và trên cả tuyệt vời. Biết thế này không nhận lời đi cùng có phải đỡ mệt không, ở nhà đọc cuốn sách mới mượn có lẽ còn hay hơn nhiều.
            - Chúng mày, có đứa nào mang dao theo không? - Sùng hỏi.
            - Để làm gì? - Một thằng hỏi lại.
            - Để dọn đường chứ làm gì nữa. Không hả, đợi tao một tí.
            Sùng chạy đi. Mấy thằng đứng lại đợi.
            - Chúng mày có nghe nói đến Thác Tiên bao giờ chưa? - Một thằng hỏi.
            - Chưa. - Mấy thằng trả lời.
            - Liệu thằng Sùng có lừa chúng mình không nhỉ.
            Đúng lúc đó Sùng chạy đến với con dao quắm sáng loáng có tra thêm một đoạn cán gỗ trên tay. Cả bọn lại lục tục kéo đi.
            Hết con đường mòn, Sùng nói:
            - Ta cứ ngược sông mà đi.
            Đường từ đây gập gềnh toàn đá và cây bụi mọc um tùm. Mặt trời ló rạng. Dòng sông lóng lánh ánh bạc. Chim hoạ mi từ khu rừng gần đó đua nhau hót...chíu...chíu... Sùng đi trước, cả bọn theo sau, thỉnh thoảng nó vung dao phát những cây mọc cao chắn lối cho bước chân được dễ dàng hơn. Càng ngày đá càng nhiều, cây càng cao, đường đi càng khó. Bên phải vẫn là dòng sông thao thiết chảy.
            Bỗng phía trước hiện ra một dãy núi cao ngất, nhìn lên hoa cả mắt. Chung quanh im ắng đến rợn người. Bước chân đã mỏi nhiều không ai bảo ai đến một khoảng nhỏ bằng bằng đều đột ngột dừng lại.
            - Chúng mày sao thế? - Sùng hỏi.
            - Nghỉ tí đã. - Mấy đứa cùng nói.
             ngồi xuống, lại đứng lên. Một lúc sau, Sùng hỏi:
            - Đi tiếp chứ?
            Đợi mãi không thấy ai trả lời.
            - Đi hay về? - Sùng hỏi lại lần nữa.
            - Đi. - Một giọng thều thào cất lên.
            Con đường từ đây rẽ sang hướng khác không còn nhìn thấy dòng sông nữa. Bước chân chênh vênh trên mũi đá tai mèo sắc nhọn.
            - Chúng mày đi cẩn thận đấy. - Sùng nói.
            Chẳng đứa nào nói câu gì, sự sợ hãi hiện lên khuôn mặt từng đứa, bước đi dè dặt hơn, gió thổi lạnh ngắt. Tiếng cất cánh của con chim cũng làm ai nấy giật mình.
            Đi thêm một đoạn bỗng nghe có tiếng nước róc rách chảy khi xa khi gần, tiếng ầm ù như gió thổi ống bương khi rõ khi thưa. Mỗi người theo đuổi ý nghĩ riêng của mình, sự mệt nhọc đang chuyển dần sang sự sợ hãi.
            Tự nhiên thằng Sùng đứng sững lại, mấy thằng đi sau không để ý suýt va người vào nó, phía trước đột ngột hiện ra một cái hang lớn.
            - Chà, đẹp quá! - Sèo thốt lên.
            Mấy đứa khác cùng nói:
            - Đẹp thật!
            Phía trên đỉnh hang thạch nhũ ngàn năm rỉ ra vón lại thành những chiếc răng nanh khổng lồ nhọn hoắt. Có vài cái răng dài xuống tận đáy thành những cái cột nâng đỡ vòm hang. Bên cạnh đó có cả trăm nghìn hình thù được thiên nhiên sáng tạo với những kích cỡ to nhỏ khác nhau cho con người những liên tưởng bất ngờ, thú vị. Phía dưới tuôn ra dòng nước trong vắt, có vài con cá đang lượn lờ đùa nghịch. Phía trong là một vùng tối hun hút vọng ra những tiếng ầm ù. Ở góc khuất có hình bốn cô gái đang tắm, tôi nghe như tiếng cười đùa vẫn còn lẩn khuất đâu đây.
            - Vào trong chứ? - Sùng hỏi.
            - Vào. - Mấy đứa cùng nói.
            Cả bọn vào trong hang rờ tay lên những khối thạch nhũ óng ánh, một cảnh giác tê tê nơi đầu ngón tay. Tôi đến gần bốn cô gái. Nghe như vọng trong tiếng gió: "Nhà ngươi đến đây làm gì? Nhà ngươi dám xâm phạm vùng cấm của bọn ta ư? Nhà ngươi còn trố mắt ra nhìn thế à?..."   Tôi thấy mặt mình nóng ra giữa lòng hang lạnh buốt.
            - Đi tiếp chứ? - Sèo chỉ tay vào trong.
            - Tối thế kia đi sao được. - Sùng nói. - Hôm nào cầm đuốc theo, chúng ta vào khám phá xem trong đó có những gì.
            Sèo bắc loa tay chõ vào vùng tối hú một hơi dài. Bầy dơi đập cánh vang động làm mọi người thót tim ngơ ngác.
            - Ngồi xuống! - Sùng nói.
            Tất cả cùng ngồi xuống, đàn dơi như những mũi tên vút ngang ngay trên đầu. Một lúc sau vắng dần, không ai để ý lũ dơi đã bay đi đâu mất.
            Trước cửa hang có một bãi đá bằng phẳng nước chảy lấp xấp vây quanh một vũng sâu đang đùn nước lên ở giữa.
            - Đây là bãi tắm của các nàng tiên, phải không Sùng? - Sèo hỏi.
            Tôi định nói là nàng tiên đang tắm ở trong kia kìa nhưng không sao cất lời lên được.
            - Tao đâu có biết, chỉ nghe kể lại thôi mà. - Sùng trả lời.
            Sùng thò tay xuống nước nhặt lên một hòn sỏi trắng tròn giống như quả trứng bỏ vào túi. Tôi cũng nhặt một hòn màu xanh ngọc cầm trong tay. Sèo lùa tay bắt cá, nhưng chúng quá khôn, ướt cả áo mà chẳng được con nào...

Tìm bạn - Nguyễn Bính

Tìm bạn
Nguyễn Bính

            Tôi tỉnh dậy khi cái nắng đã sải chân khắp nẻo, cảnh vật bừng sáng, hít một hơi rõ dài, vươn vai một cái,...
            Đâu đây có tiếng hoạ mi hót, tôi lắng tai nghe.
            Một cơn gió tràn tới, tiếng đập nước thì thùm, tiếng hò hét cười nói, tiếng gọi nhau í ới vọng lại. Tôi đoán chắc rằng phía sông lúc này đang đông người. Một ý nghĩ chợt đến, tại sao mình không đi một vòng xem nơi ở mới có những gì nhỉ. Nơi mà tôi quyết định sẽ ghé chân đầu tiên là dòng sông. Nắng sớm trong veo và gió mát. Tôi lâng lâng nhịp bước. Con đường mòn đi vắt qua nương ngô cong queo, õng ẹo, đỏng đảnh, thỉnh thoảng vài anh chàng ngô đổ kềnh ra chắn lấy lối đi. Tôi đi một cách điệu đàng với những bước nhún nhảy rất điệu nghệ vượt qua những cây ngô. Một bé gái hiện ra ngay trước mặt làm tôi giật mình, trên lưng cô bé là gùi nước nặng trĩu, tôi vội vàng nhường đường bước xuống nương ngô, vô tình vấp vào mô đất, may quá mấy anh chàng ngô đã đỡ lấy thân tôi không để lấm quần áo. Cô bé nhìn tôi tủm tỉm cười. Nụ cười ấy đã làm tôi ngơ ngẩn một lúc lâu, cả khi cô bé đã đi khuất trong rừng ngô. Tội nghiệp mấy cây ngô vừa đỡ thân tôi đã không còn đứng thẳng lên như tôi được nữa. Định thần lại tôi đã nhảy lên cao mấy lần để vượt lên những cây ngô xem bóng dáng cô bé có còn gần đó. Nhưng tôi chẳng thấy gì ngoài màu xanh xám của lá ngô bắt đầu khô đi. Tôi đành đưa chân bước tiếp.
Tiếng cười lại rộ lên, bây giờ đã rõ lắm, áng chừng sắp tới dòng sông, tôi thong thả bước và thấy mình người lớn hơn.
            Tôi đã nhìn thấy dòng sông, nước chảy có vẻ vội vã, nó cuộn lên, vón lại rồi tan ra, rồi lại cuộn lên vón lại và tan ra,... Dòng sông trong tâm tưởng của tôi khác hẳn, nước êm đềm trôi, xanh trong và dài rộng. Đàn cá tung tăng bơi lội, thỉnh thoảng quẫy đuôi đớp bóng tắc pủm. Hai bên bờ có hàng cây soi bóng... Nay nhìn xuống dòng sông cũng thấy xanh trong nhưng không thấy cá và không thấy hàng cây chỉ thấy những đám ngô lột bẹ đang phơi dưới nắng.
Tôi đi tiếp về phía có tiếng người hò hét. Nơi ấy con sông vồng lên, nước chảy qua những phến đá to rồi đổ xuống ầm ào. Bờ sông có vài người phụ nữ đang giặt áo váy. Cạnh đó lũ trẻ đang hò hét đùa nhau đập nước bắn tung tóe. Tôi đưa chân lên bãi cát, sự mát dịu thấm vào da thịt. Không ai thèm để ý đến tôi. Tôi bước tiếp về phía lũ trẻ.
            Bỗng một đứa hét to:
            - Thằng mới đến kìa chúng mày.
            Tôi nhìn kỹ và phát hiện ra thằng béo nhất vừa hét. Nó có kiểu tóc thật ấn tượng, thoạt nhìn người ta cứ tưởng cái mũ nồi đội lên khúc chuối. Cả bọn dừng hò hét tiến lại phía tôi. Thằng béo khệnh khạng đi lên trước.
            - Ê, mới đến hả?
            Tôi không nói gì đi thẳng ra mép nước.
            - Đứng lại! - Thằng béo quát.
            Tôi giả vờ không nghe thấy bước một chân xuống nước rồi thò tay vục nước đưa lên miệng, một vị ngọt thanh thanh tan ra nơi đầu lưỡi.
            - Thằng kia, tại sao mày không đứng lại. - Thằng béo quát lên lần nữa.
            Tôi vẫn không nói gì đưa nốt chân kia xuống nước, cả hai bàn chân lúc này rười rượi mát. Thằng béo tiến lại gần hơn, nó dịu giọng:
            - Tao hỏi sao mày không trả lời?
            - Mày hỏi tao à? - Tôi hỏi lại nó.
            - Chứ còn ai nữa.
            - Vậy hả? Thế mà tao cứ tưởng...
            - Mày tưởng gì?
            - Tao tưởng mày hỏi đứa nào đó.
            - Mày định gây sự hả?
            Tôi không nói gì quay mặt đi. Thằng béo tức tím mặt. Cả bọn lúc này đã quây lại. Thằng béo bất ngờ tung một cú đấm thẳng về phía má bên trái của tôi. Tôi xoay người lùi chân phải về phía sau. Thằng béo đấm trượt vấp vào chân trái tôi chới với rồi ngã tòm xuống sông. Nó lóp ngóp bò dậy chạy lại tung tiếp một cú đấp nữa về phía mũi của tôi. Tôi né người, thuận chân đạp vào cái mông quá khổ của nó. Thằng béo ngã úp mặt xuống dòng nước và bị trôi đi một đoạn. Nó đứng dậy vuốt mặt rồi tung một cú xông phi về phía tôi. Tôi tiếp tục tránh né. Thằng béo lại ngã ùm xuống nước. Lần này nó bật dậy tung một cú đá vào giữa ngực tôi, tôi nghiêng người phóng một cước vào chân trụ của nó làm nó đổ xuống như cái cây bị chặt gốc. Thằng béo lần này không dậy nữa mà ngồi dưới nước giơ tay lên.
            - Đình chiến! - Nó đề nghị.
            Tôi đồng ý. Cả bọn đồng loạt vỗ tay. Tôi không ngờ mấy miếng võ bố nói là của người Hoa, lúc cao hứng ông đã truyền dạy cho tôi lại có giá trị đến vậy. Thằng béo đầu hàng không kèm theo một điều kiện nào. Cả bọn nhìn tôi kính nể.
            Tôi thấy mình cũng oai vệ đường hoàng, có đứa còn mau mồm gọi tôi là "chủ tướng" làm tôi sướng rơn. Cả bọn muốn làm bạn với tôi, tôn tôi làm thống lãnh nhưng tôi chả thích mấy, chơi với chúng được một lúc thì chán rồi bỏ về.
            Tôi giúp mẹ xếp ngô lên gác bếp.
            Em Mai đã tìm được bạn mới, chúng vui vẻ kéo nhau đi chơi.
            Một ngày trôi qua bình lặng.
            Hôm sau bất ngờ Sình đến. Nó đến bằng xe đạp do thằng Pao đèo. Lần đầu tiên tôi được nhìn và sờ tay vào xe đạp. Sình khoe Pao là hàng xóm nhà nó. Biết tôi đã chuyển xuống quê mới Sình rủ Pao đi chơi. Đi xe đạp nhanh lắm, nhanh hơn cả đi ngựa,... Tôi cười nghe nó nói. Cái thằng vẫn thế, khi vui nói hết phần người khác, khi buồn cạy răng không được nửa lời. Tôi và Sình huyên thuyên những chuyện cũ mới. Pao không nói gì chỉ cười. Tôi không thích mấy cái tính hay khoe khoang của thằng Sình, nó nói đi nói lại rằng có bộ đồ chơi mới đẹp lắm và khẩn khoản mời tôi đến nhà. Nhà nó cách nhà tôi không xa, chừng mười lăm phút đi xe đạp là tới. Tôi không biết nói gì vì tôi chưa có xe đạp, chưa một lần được ngồi lên xe đạp, vậy mà... Thằng Sình nói hào hứng quá!
            Rồi Sình cũng ra về. Đi được một đoạn khá xa nó còn cố nhắc lại lời mời:
            - Nhớ đến nhé, hay lắm, tớ sẽ bày cách cho mà chơi, nhớ nhé!

Quyết chí ra đi - Nguyễn Bính

Quyết chí ra đi
Nguyễn Bính

            - Sắp đến thành phố chưa hả anh?
            Tôi định nói: "Hỏi gì mà lắm thế!" nhưng kìm lại được vì từ lúc lên xe tới giờ chị ta đã hỏi tôi câu ấy mấy lần liền. Tôi định không trả lời nhưng như thế thì bất lịch sự quá.
            - Cứ ngồi yên đấy đi, chiều mới tới thành phố. - Giọng tôi hơi xẵng.
            Ngồi được một lúc chị ta lại quay sang tôi ý chừng muốn hỏi sắp đến thành phố chưa. Thấy vậy tôi giả vờ ngủ, chị ta đành ngồi yên. Đến đoạn đường xấu, ổ gà ổ voi làm xe cứ nhẩy chồm chồm như lên đồng, tôi buộc phải mở mắt để bán vào thành ghế để giữ thăng bằng, chị ta đang định hỏi thì tôi hỏi trước:
            - Đây là lần đầu tiên chị đi thành phố phải không?
            Thấy tôi hỏi chị ta xúc động dốc bầu tâm sự:
            - Vâng, đây là lần đầu tiên, em chưa biết thành phố như thế nào. Đi qua mấy chỗ có nhiều nhà em cứ tưởng là thành phố...
            - Chị đi thành phố có việc gì?
            - Chả giấu gì anh em đang đi tìm việc làm. Nhà em đông người quá chỉ trông vào mấy mảnh ruộng thì không đủ ăn, mỗi năm thiếu đói đến mấy tháng.
            - Nhà chị có bao nhiêu người?
            - Hai vợ chồng em và bảy đứa con.
            - Gớm, sao chị đẻ nhiều thế?
            Không trả lời câu hỏi của tôi, chị ta cúi mặt rồi quay ra ngắm hàng cây ven đường. Tôi cũng ngả người ra ghế thiu thiu ngủ... Tôi đang ngủ thì bị chị ta lay dậy.
            - Phía xa kia có phải là thành phố không, anh?
            - Phải. Chị có quen ai ở đấy không?
            - Em có một đứa bạn hồi nhỏ thường đi chăn trâu với nhau. Xưa kia nhà nó rách rưới nghèo khổ lắm. Mới năm ngoái nó bỏ quê ra thành phố, lúc đi chỉ có hai bàn tay trắng. Vậy mà hôm vừa rồi về quê nó khoe là làm ăn được, vàng đeo đầy tay. Nó mua cho mẹ nó cái ti vi đẹp lắm, cả xóm đến xem. Nó nhìn gia cảnh nhà em ái ngại. Nó mời em đi làm ăn với nó, tuy chẳng giàu nhưng cũng gấp vạn lần ở quê. Em suy nghĩ rất nhiều. Đất quê em không thiếu nhưng sức người như gia đình em chỉ đánh vật với mấy mảnh ruộng cũng đã bở hơi tai. Chỉ có mấy mảnh ruộng thôi thì năm nào cũng đói còn mơ gì đến chuyện làm giàu. Muốn mở rộng sản xuất phải có sức trâu thay sức người, nghĩ vậy em mới bàn với chồng cho em đi làm với đứa bạn một thời gian kiếm đủ tiền mua một con trâu thì em về. Lúc đầu chồng em phản đối nhưng nghĩ đến tương lai của bọn trẻ rồi cũng đành vậy xem có khá hơn được không. Thực lòng mà nói em cũng chẳng muốn xa quê, xa lũ trẻ, cực chẳng đã mới phải làm như vậy.
            Tôi bỗng thấy mình hẹp hòi so với tấm lòng của chị. Cảm giác xấu hổ xâm chiếm làm tôi bớt kiêu căng. Nếu ở trong hoàn cảnh của chị liệu tôi có đủ can đảm để ra đi như chị không?! Tôi bắt đầu thấy kính trọng người phụ nữ này.
            Bất giác tôi chợt nghĩ giá mà chị ta không đẻ nhiều như thế thì chắc hẳn đã không phải khổ như vậy, không phải rời bỏ quê hương ra thành phố hòng kiếm tiền về mua một con trâu để cày ruộng.

Núi Ba Tiên - Nguyễn Bính

Núi Ba Tiên
Nguyễn Bính

            - Lên núi Ba Tiên chơi đi! - Tôi rủ một người bạn.
            - Bây giờ á? - Anh ta hỏi lại.
            - Ừ. - Tôi đáp.
            Anh ta nhìn tôi, cười.
            - Cậu định đi mấy ngày? - Anh ta hỏi.
            - Giờ đi, tối về.
            Anh ta nhìn tôi hơi lạ.
            - Thế thì chỉ đi được đến chân núi thôi.
            - Phải đi bao lâu mới lên tới đỉnh?
            - Khoảng một tuần.
            Tôi hỏi mấy người xung quanh, ai cũng bảo lên được đỉnh núi phải trên dưới một tuần. Khi hỏi đã có ai lên núi lần nào chưa, họ đều nói là chưa. Mọi người nhìn tôi, cười. Anh bạn nói một câu như là lời hẹn:
            - Để hôm nào chuẩn bị lương thực, đồ dùng, nước uống rồi đi thử một chuyến xem sao.
Tôi không nói gì, nhìn lên ngọn núi có làn mây trắng mà thầm tiếc, mà ước ao, mà khao khát.
Núi Ba Tiên, núi của huyền thoại, núi của tiên giới giữa trần gian.
            Trên đỉnh núi có một cái hồ khá rộng, nước luôn ăm ắp đầy, trong trẻo và luôn ấm. Tắm nước trong hồ, ngơười xấu cũng trở nên xinh đẹp, người ốm yếu trở nên khoẻ mạnh, người già đươợc trẻ lại.
            Xưa kia, các nàng tiên thường trốn Ngọc Hoàng xuống đây tắm, làn da càng mịn màng và mềm mại như da em bé. Nàng Tiên Bếp đen nhẻm sau khi theo các chị xuống hồ tắm, lên thiên đình nước da cứ trắng dần ra. Hơn một tháng sau Ngọc Hoàng đã nhầm với nàng Tiên Đào khi nàng Tiên Bếp đi qua. Và chuyện các nàng tiên trốn khỏi thiên đình xuống hạ giới đã bị Ngọc Hoàng phát hiện. Hôm ấy như thường lệ nàng Tiên Hoa, Tiên Gạo và Tiên Đào lại trốn xuống tắm nước hồ. Ngọc Hoàng tức giận cho đóng cửa thiên đình lại. Ba nàng tiên không còn đường về nên phải ở lại dưới hạ giới. Ba nàng ở luôn trên núi, và thế là núi đó có tên gọi là núi Ba Tiên.
Nàng Tiên gạo vẫn làm công việc của mình là đi gieo hạt lúa khắp nơi. Nàng gặp chàng Nhất Sơn rồi nên vợ nên chồng.
            Nàng Tiên Đào vào nàng Tiên Hoa vẫn ở núi Ba Tiên.
            Nàng Tiên Hoa gieo trồng một vườn hoa tuyệt đẹp, với hàng trăm loại hoa, hàng nghìn màu sắc bốn mùa đua nở, có những loại hoa nàng tìm ra đến cả thiên đình cũng không có, hạ giới cũng không có. Còn nàng Tiên Đào cũng có một vườn đào của mình. Cây đào vừa lớn lên đã cho quả. Quả đào có màu phớt hồng và cái núm xinh xinh như nhũ hoa người thiếu nữ, xung quanh có lớp lông tơ mịn mươợt. Cây đào lớn rất nhanh và trĩu trịt quả.
            Sau khi đóng cửa thiên đình Ngọc Hoàng vẫn theo dõi xem các nàng tiên sẽ sống như thế nào ở dưới hạ giới. Điều mà Ngọc Hoàng không ngờ tới là cảnh đẹp của núi Ba Tiên thật hữu tình, được bàn tay khéo léo của các nàng điểm tô nên ngày càng đẹp hơn. Cảnh sắc của thiên đình thì ngược lại ngày càng héo úa đi. Ngọc Hoàng sau khi cân nhắc đã rút lại lệnh cấm đồng ý để ba nàng tiên được quay về trời. Các nàng tiên ở hạ giới tuy có cuộc sống rất tốt nhưng từ trong sâu thẳm lòng mình nỗi nhớ thiên đình, nhớ mẹ cha luôn trào dâng, nên khi Ngọc Hoàng thu lại lệnh cấm các nàng đã không ngần ngại rời cuộc sống trần gian để trở lại thiên đình. Nàng Tiên Gạo trước khi đi đã để lại đôi nhũ của mình lại hạ giới cho đứa con còn thơ dại, đôi nhũ ấy hiện giờ vẫn còn ở tại thị trấn Tam Sơn huyện Quản Bạ tỉnh Hà Giang. Nàng Tiên Đào và nàng Tiên Hoa khi về trời cũng để lại toàn bộ hoa và quả tại núi Ba Tiên.
            Chuyện kể rằng, ngày xưa có anh tiều phu đi kiếm củi đã liều mạng leo lên đỉnh núi Ba Tiên gặp đúng lúc các nàng tiên đang tắm, anh ta gần như chết lặng không còn tin vào mắt mình trước những nét đẹp hoàn mỹ của trời đất. Anh ta dụi đến đỏ cả mắt mà mỗi lần mở ra hình ảnh trước mặt vẫn không có gì đổi khác.
            Khi các nàng tiên đã về trời, anh ta vẫn đứng đó. Đêm đã xuống và trăng đang lên. Anh ta không dám cựa mình, không dám nhúc nhích. Anh ta sợ chỉ động đậy một chút là các nàng tiên sẽ không quay lại. Anh ta cố đợi, các nàng tiên bay đi rồi thế nào cũng về. Đợi mãi và đợi mãi, anh ta đã hoá đá lúc nào không hay. Đến bây giờ anh ta vẫn đứng như vậy, rêu xanh đã phủ một lớp dày lên người anh ta.
            Và tôi, từ rất lâu đã mơ ước một lần được lên đỉnh núi Ba Tiên, được kiểm chứng những gì nghe kể lại. Và đến bây giờ mơ ước đó vẫn chưa thực hiện được.
            Chiều dần buông, ngọn núi Ba Tiên đang nhạt nhoà dần vào sương khói, đỉnh núi có làn mây trắng đang sà xuống thấp hơn, dòng n-ước nơi chân núi vẫn xối ra ào ào. Tôi vục tay xuống nước vã lên mặt và giật mình khi thấy ngang trời có một đôi cánh trắng đang bay về hướng núi.
Có phải đó là đôi cánh của nàng tiên?