Truyện ngắn dịch
       
Thơ
       
Thơ dịch Truyện ngắn khuyết danh Truyện ngắn Truyện dịch cực ngắn
       
15/3/12

Phòng số 6 - Anton Chekhov

Phòng số 6
Anton Chekhov

            Trong khoảng sân bệnh viện có một căn lều nhỏ được bao quanh bởi một rừng cây ngưu bàng, tầm ma và cây gai hoàn hảo. Mái nhà thì ủ dột và lò sưởi thì đang vỡ ra từng mảng, những bậc thang trước cửa đang mục rửa vào hoàn toàn bị bao phủ bởi cỏ dại và chỉ còn lại một ít vữa. Mặt trước của căn lều đối diện với bệnh viện và phia sau là một vùng đồng quê rộng mở, được phân biệt với hàng rào màu xám có đóng đinh của bệnh viện. Những cây đinh này chĩa thẳng lên trời, hàng rào và chính căn lều trông thật quái dị, tan hoang và như đã bị Chúa bỏ quên này thường chỉ được tìm thấy ở bệnh viện của chúng ta hoặc những nhà tù.
            Nếu bạn không sợ bị đâm bởi những cây tầm ma thì hãy đi đến con đường hẹp dẫn đến căn lều và chúng ta sẽ cùng xem bên trong. Mở cánh cửa đầu tiên, chúng ta sẽ vào được gian sảnh. Nằm dọc theo tường và cạnh cái lò là đủ thứ cái loại rác thải của bệnh viện. Các tấm nệm, những cái áo bệnh nhân cũ, quần, áo sọc xanh, giày dép chẳng còn dùng được. Những vật thừa thãi này chất thành một đống, trộn lẫn vào nhau trông thật rối rắm và có mùi thật kinh khủng.
            Người gác cổng, Nikita, một người lính già mặc một chiếc áo sọc có chất lượng tốt đã sờn, luôn luôn nằm trên đống rác thải với cái ống điếu luôn luôn ở giữa hai hàm răng. Hắn ta có một vẻ mặt cáu kỉnh, chán nản và như bị ngược đãi, cặp lông mày quá rậm khiến hắn có vẻ giống một con chó săn cừu vùng thảo nguyên. Và hắn có cái mũi đỏ. Hắn trông thật nhỏ con và luộm thuộm nhưng lại có cách xử sự vô cùng cứng rắn và nắm đấm của hắn thì vô cùng mạnh mẽ. Hắn thuộc tuýp người suy nghĩ đơn giản, thực dụng và kém phát triển, luôn luôn làm theo mệnh lệnh. Hắn thích kỷ luật hơn bất cứ thứ gì và hắn tin rằng đánh người là trách nhiệm của mình. Hắn đánh tới tấp vào mặt, ngực, lưng và bất cứ chỗ nào hắn nhìn thấy đầu tiên và hắn tin rằng nếu hắn không làm như thế thì thế giới sẽ không còn trật tự kỷ cương gì nữa.
            Tiếp theo bạn sẽ đến một căn phòng rộng rãi chiếm gần hết không gian của căn lều. Ở đây, tường được sơn một màu xanh dơ bẩn và trần nhà thì đầy bồ hóng như một căn lều không có ống khói. Điều này cho thấy vào mùa đông thì cái lò xả khói đầy căn lều. Các cửa sổ bị làm cho méo mó bởi cái thanh chắn bằng sắt ở bên trong. Sàn gỗ thì xám xịt và đầy mảnh vụn. Có một mùi rất khó chịu của cải bị chua, đèn âm ỉ cháy, bọ và amoniac. Và vào những phút đầu tiên thì cái mùi khó chịu này sẽ khiến bạn nghĩ mình đang bước vào chuồng thú của một gánh xiếc.
            Ở đây có những khung giường được đóng đinh dính vào sàn nhà. Những người mặc áo xanh của bệnh viện và độ những cái mũ mềm kiểu cũ đang nằm hoặc ngồi trên những cái khung giường đó. Đó chính là những người điên.
            Có tất cả 5 người ở đây. Chỉ có một người là ở giai cấp cao trong xã hội, những người còn lại đều là thợ thủ công. Người ở gần cửa nhất là một người cao, gầy còm với những sợi tóc đỏ đang ngồi gục chống cằm và nhìn mãi vào một điểm cố định. Cả ngày lẫn đêm anh ta đều buồn khổ, lắc đầu, thở dài và cười cay đắng. Khi tham gia vào nhựng mỗi đối thoại anh ta thường không trả lời bất cứ câu hỏi nào. Anh ta ăn uống một cách máy móc mỗi khi thức ăn được mang đến. Qua sự đau khổ, những cơn ho dồn, cơ thể gầy ốm và cái má đỏ của anh ta, ai cũng có thể nói rằng anh ta bị suy dinh dưỡng nặng. Bên cạnh anh ta là một ông già nhỏ con luôn luôn cảnh giác. Ông ta có hàm râu nhọn và mái tóc xoăn đen như một người da đen. Ngày ngày, ông ta đi lại trong phòng giam hết từ cửa sổ này đến cửa số khác hoặc ngồi trên giường bắt chéo chân như một người Thổ Nhĩ Kỳ. Và ông ta liên tục huýt sáo, lẩm nhẩm hát rồi cười khúc khích. Ông ta thể hiện sự vui vẻ kiểu trẻ con của mình và tính cách sống động kể cả ban đêm khi ông ta cầu nguyện rồi sau đó tự đánh vào ngực mình và dùng các ngón tay cào vào cánh cửa. Người này là Jew Moiseika, một gã khờ, hóa điên 20 năm trước khi nhà máy làm nón của ông ta cháy rụi.
            Trong tất cả những người cư trú trong phòng số 6, ông ta là người duy nhất được phép ra ngoài căn lều, thậm chí ra khỏi sân để đi vào đường cái. Ông ta đã tận hưởng cái thú vui này mấy năm trời có lẽ vì ông ta là một bệnh nhân già của bệnh viện, một người khờ vô hại, một thằng hề của đường phố. Người ta thường thấy ông ta bị bao vây bởi lũ con trai và lũ chó. Ông ta mặc cái áo bệnh nhân, cái mũ vải và một đôi dép, thỉnh thoảng ông ta đi chân không và thậm chí là nhìu khi không mặc quần, đi hết phố này đến phố khác, đứng trước các cửa tiểm nhỏ xin vài đồng cắc. Có noi cho ông ta vài đồng, có nơi lại cho ông ta mẩu bánh mì cho nên thông thường ông ta trở lại căn lều với một cảm giác giàu có va no đủ. Tất cả những gì ông ta mang về, Nikita đều lấy với lí do là vì chuyện đó có lợi cho ông ta. Nikita lục soát ông già một cách thô bạo, giận dữ. Hắn lộn hết túi áo của ông già ra và thề có Chúa là sẽ không bao giờ cho ông già ra đường nữa và với ông già thì sự thay đổi đó còn tệ hơn bất cứ thí gì trên đời.
            Moiseka thích làm cho bản thân mình trở nên hữu ích. Ông ta hay cho những người chung phòng với mình nước uống và đắp chăn cho họ khi họ ngủ. Ông ta hứa với họ sẽ cho họ một đồng copeck, hoặc cho họ một cái mũ mới. Ông ta lấy muỗng của mình để đút cho bệnh nhân liệt nằm bên trái. Ông ta hành động như thế không phải vì lòng trắc ẩn hay sự cảm thông với nhân loại mà là sự bắt chước một cách vô thức Gronov, người nằm bên phải ông ta.
            Ivan Dmitritch Gronov, một người đàn ông 33 tuổi, đã là một quý ông từ lúc mới sinh ra. Anh ta đã từng là người gác cửa ở tòa án và là một thư ký ở địa phương. Anh ta bị chứng lo sợ bị ngược đãi. Ivan hay nằm co rúm trên giường hoặc là đi từ nơi này sang nơi khác của căn phòng như đang tập thể dục. Hiếm khi nào thấy anh ta ngồi xuống. Anh ta luôn ở trạng thái bị kích động, căng thẳng và luôn khiếp sợ một việc mơ hồ nào đó. Một tiếng động xào xạc rất nhẹ ở sảnh hay một tiếng nói ở ngoài sân thì cũng đủ để khiến cho anh ta ngẩng đầu lên và lắng nghe, cứ như là một điều gì đó đang đến hoặc đang tìm anh ta. Và ngay sau đó vẻ mặt anh ta hiện lên một cách rõ ràng rằng anh ta đang cảm thấy rất sợ hãi và kinh tởm.
            Tôi rất thích khuôn mặt sáng sủa, luôn luôn tái xanh, buồn bã và gò má cao của anh ta. Khuôn mặt anh ta luôn luôn phản chiếu rõ như một tấm gương một tâm hồn đang bị dày vò bởi những xung đột và sợ hãi kéo dài. Khuôn mặt khiếp đảm của anh ta rất lạ và không bình thường, nhưng những đường nét thanh tú còn lại trên khuôn mặt anh ta thể hiện một sự thật thà, sâu sắc cho thấy anh ta rất thông minh và tỉnh táo. Và anh ta luôn luôn có một ánh mắt ấm áp và khỏe mạnh. Tôi rất thích anh ta vì cái tính cách rộng lượng, luôn mong muốn được giúp đỡ người khác và luôn luôn lịch sự với tất cả mọi người trừ Nikita. Mỗi khi ai đó làm rơi một chiếc cúc áo hay một cái muỗng, anh ta liền phóng khỏi giường và nhặt lên. Sáng nào anh ta cũng chào hỏi các bệnh nhân cùng phòng với mình và khi đi ngủ thì anh ta luôn chúc họ ngủ ngon.
            Bên cạnh chứng sợ hãi thái quá và khuôn mặt khổ sở của anh ta thì chứng điên loạn của anh ta cũng bộc lộ ra ở những cách sau đây. Thỉnh thoảng vào buổi chiều anh ta tự trói mình trong bộ áo bệnh nhân và sợ hãi điên cuồng, hai hàm răng va vào nhau liên tục rồi anh ta cứ đi qua đi lại từ góc này qua góc khác, đi qua các giường bệnh. Trông anh ta giống như đang bị một cơn sốt dữ dội. Từ cái cách anh ta ngừng lại và nhìn những bệnh nhân khác tôi có thể thấy được rằng anh ta đang mong mỏi được nói một điều gì đó rất quan trọng, nhưng có vẻ như họ sẽ không nghe hoặc không hiểu, anh ta lắc đầu bực dọc và lại tiếp tục đi lại. Nhưng ngay sau đó, sự khao khát được nói của anh ta vượt quá tầm kiềm soát và anh ta tự cho phép mình nói nhiệt tình,hăng say, không ngơi nghỉ. Những lời anh ta nói rất rời rạc, nghe như đang mê sảng và không phải lúc nào cũng dễ hiểu. Tuy nhiên, một điều gì đó vô cùng dễ chịu những câu chuyện ấy mang đến cho tôi, có thể là do những lời nói hoặc chất giọng êm dịu của anh ta. Khi anh ta nói bạn có thể nhìn thấy trong anh ta cả một người điên và một người tỉnh. Thật khó để có thể viết ra giấy những mẩu chuyện điên loạn của anh ta. Anh ta nói về những điều cơ bản của nhân đạo, vệ việc bạo lực đang đè nén công lí, hoặc một cuộc sống huy hoàng một ngày nào đó sẽ xảy đến hoặc những tiêu chuẩn lựa chọn cửa sổ. Tất cả những điều đó từng phút từng giây nhắc anh ta nhớ đến sự ngu dốt và tàn bạo của những kẻ áp bức, một chủ đề hỗn loạn và rời rạc nhưng không hề cũ.
            Mười hai hay mười lăm năm trước đây, một viên chức có tên là Gromov, một người đáng kính và thành đạt sống trong căn nhà của mình tại con đường chính của thành phố. Ông ta có hai người con trai là Sergey và Ivan. Khi Sergey đang học lớp 4 thì bị bệnh phổi rất nặng và qua đời và cái chết của Sergey chính là sự kiện đầu tiền của một chuỗi tai họa bất thình lình giáng xuống gia đình Gromov. Chỉ trong vòng tuần đầu tiên sau tang lễ của Sergey, Gromov bị đưa ra tòa vì tội lừa đảo và tham ô và chết vì bệnh thương hàn trong bệnh viện của nhà tù không lâu sau đó. Ngôi nhà cùng với tất cả những gì ở bên trong bị đem bán đấu giá. Ivan và mẹ bị tống ra đường mà không có một xu dính túi.
            Khi cha mình còn sống, Ivan Dmitritch đang học tại Đại học Petersburg. Hàng tháng anh ta nhận được khoảng 60 hoặc 70 rúp tiền tiêu vặt và không hề có khái niệm gì về sự nghèo khổ. Bây giờ thì cuộc sống của anh ta đã thay đổi một cách đột ngột và tàn nhẫn. Từ sáng đến tối anh ta phải đi dạy những bài học vô nghĩa, đi làm việc vặt trong khi đói cồn cào bởi vì tất cả tiền bạc anh ta kiếm được đều phải gởi để duy trì sự sống cho người mẹ. Ivan Dmitritch không thể chịu nổi một cuộc sống như thế. Anh ta mất hết nghị lực, sức sống và cuối cùng anh ta bỏ học để về nhà.
            Qua quen biết, anh ta được nhận làm giáo viên một trường của quận. Thế nhưng anh ta không được đồng nghiệp cũng như các học sinh yêu mến cho nên không lâu sau anh ta bỏ việc. Rồi mẹ anh ta mất. Sáu tháng thất nghiệp sau đó anh ta chỉ sống bằng bánh mì và nước lã, rồi anh ta trở thành người gác cổng của tòa án. Anh ta làm nghề này cho đến khi bị cho nghỉ việc do căn bệnh của mình.
            Kể từ lúc anh ta còn là sinh viên thì chưa ai thấy anh ta có vẻ khỏe mạnh bao giờ. Trông anh ta lúc nào cũng xanh xao, gầy ốm và dễ bị cảm; hiếm khi nào thấy anh ta ngủ hay ăn. Uống một li rượu vào là anh ta ngay lập tức trở nên cuồng loạn. Anh ta luôn có một lòng say mê cống hiến cho xã hội thế nhưng tính khí dễ bị kích động và sự nghi ngờ của anh ta, anh ta chưa bao giờ thân thiết với ai và không có bạn. Anh ta luôn nói về những người cùng phố với mình bằng một giọng khinh thường. Anh ta nói rằng sự thô thiển ngu dốt và sự ngu si như loài vật của họ khiến anh ta cảm thấy khinh bỉ. Anh ta nói với chất giọng nam cao của mình, với sự nhiệt huyết và luôn luôn có chứa giọng điệu xem thường hoặc giận dữ hoặc với sự kỳ vọng và đam mê, và luôn luôn thành thật. Cho dù người ta nói với Ivan bất cứ chuyện gì anh ta luôn đưa về cùng một chủ đề: rằng cuộc sống thật ngu ngốc và ngột ngạt ở thành phố này; rằng những người của thành phố này không có những sở thích cao quý mà sống một cuộc sống dơ bẩn và vô nghĩ, đủ thứ bạo lực, sự phóng đãng thô thiển và đạo đức giả. Anh ta còn nói rằng những tên vô lại thì sống no đủ còn những người ngay thẳng thì chật vật kiếm từng miếng ăn, rằng họ cần trường học, một tờ báo địa phương tiến bộ, rạp hát, những bào thuyết giảng cộng đồng và sự hợp tác của những bộ óc trí tuệ, rằng cộng đồng này cần phải nhận thấy được rằng nó đang tuột dốc và thảm hại. Trong sự chỉ trích của anh ta về con người anh ta vẽ nên một bức tranh chỉ toàn hai màu trắng đen, không có hình ảnh nào rõ nét. Đối với anh ta, trên đời chỉ có hai loại người: người thành thật và lũ côn đồ, không có hạng người nào là kết hợp bởi hai thứ trên. Anh ta luôn nói một cách say sưa và nhiệt tình về tình yêu và phụ nữ, nhưng anh ta chưa từng yêu ai bao giờ.
            Cho sở hữu những phán xét khắc nghiệt và luôn luôn lo lắng nhưng Ivan rất được yêu mến. Với sự lịch sự, tao nhã bẩm sinh, luôn sẵn sàng giúp đỡ, phẩm hạnh thuần khiết, cái áo khoát sờn và sự ốm yếu của anh ta và nỗi bất hạnh gia đình luôn gợi cho người khác một cảm giác thông cảm, yêu mến và thoáng chút thương hại. Hơn nữa, anh ta được giáo dục tốt và đọc rất nhiều sách. Theo những người trong thành phố, anh ta biết mọi thứ và trong mắt mọi người thì anh ta là một quyển bách khoa toàn thư biết đi.
            Anh ta đã đọc một lượng sách khổng lồ. Anh ta hay ngồi ở một góc, vuốt râu một cách lo lắng và đọc những quyển tạp chí và những quyển sách. Và qua vẻ mặt anh ta thì có vẻ như anh ta không hề đọc mà như đang ngấu nghiến từng trang và không có thời gian để tiêu hóa những gì vừa đọc. Có lẽ với anh ta việc đọc sách là một thói quen không lành mạnh, rằng bất cứ thứ gì rơi vào tay anh ta cũng trở nên đầy khao khát, thậm chí là một tờ báo cũ của năm trước và những cuốn lịch. Ở nhà lúc nào anh ta cũng nằm đọc
            Một sáng mùa thu, Ivan Dmitritch dựng cổ áo khoác lên và đi qua bùn lầy, đi trên vỉa để đến gặp vài người thợ thủ công để lĩnh lương. Khi đang đi thì anh ta gặp hai người tù đeo gông và bốn người lính tay cầm súng. Ivan thỉnh thoảng vẫn hay gặp những người tù như vậy và họ luôn làm cho anh ta cảm thấy bất an và một chút trắc ẩn nhưng cuộc gặp gỡ lần này tạo cho anh ta một ấn tượng thật kỳ lạ. Đột nhiên anh ta cảm thấy là chính bản thân anh ta cũng có thể bị đóng gông và lôi qua bùn lầy để đến nhà tù như vậy. Sau khi gặp những người thợ thủ công, trên đường về nhà anh ta gặp một sỹ quan cảnh sát mà anh ta quen gần bưu điện. Vị sĩ quan ân cần chào hỏi anh ta và đi theo trò chuyện với anh ta một đoạn đường, khiến cho Ivan cảm thấy nghi ngờ đến tột độ. Một sự lo lắng tột độ trong thâm tâm khiến cho anh ta không thể làm được bất cứ điều gì. Buổi chiều hôm đó anh ta không thắp đèn và buổi tối thì anh ta không thể ngủ được. Ivan cứ mãi nghĩ về những người tù, những người lính, những khẩu súng và những cái cùm. Anh ta cứ nghĩ mãi rằng có thể anh ta cũng sẽ bị bắt và tống vào tù. Anh ta không thể nghĩ ra được bất cứ điều gì xấu xa mà mình đã gây ra và Ivan chắc chắn rằng anh ta chưa từng giết người hay phóng hỏa và chắc chắn cũng sẽ không làm những điều đó trong tương lai. Nhưng chẳng phải rất dễ dàng gây ra một tội ác một cách vô tình, không có chủ ý hay sao? Và chẳng phải vẫn có nhiều khi anh ta bị làm chứng nhầm hoặc, thật sự là có, anh ta bị xử oan bởi những viên quan tòa tắc trách. Chẳng phải vô cớ mà kinh nghiệm mà anh học được từ những con người hết sức bình thường rằng cảnh nghèo túng và nhà tù là những căn bệnh quái ác mà không ai trong chúng ta có thể tránh được. Một sai lầm pháp lý thì cũng có thể xem như là một hành động có đạo đức và chuyện đó thì không có gì để bàn cãi. Những con người đó liên quan một cách trực tiếp và hết sức chuyên nghiệp đến sự đau khổ của những người khác.
            Ví dụ như những vị thẩm phán, sĩ quan cảnh sát hay những bác sỹ, qua một thời gian đã trở nên thật nhẫn tâm đến mức không thể cho dù họ có muốn đối xử với những khách hàng của mình một cách tôn trọng sau. Ở khía cạnh này thì họ không khác gì những người nông dân chuyên giết cừu và bê con ở sân nhà và không thèm để tâm đến máu. Với thái độ vô cảm lạnh lung này đối với nhân dân, những vị thẩm phán chỉ cần một thứ - thời gian – để có thể tịch thu bất cứ gì thuộc sở hữu của một con người và tống anh ta vào tù. Những vị thẩm phán này chỉ có thể được hưởng lương vào những lúc họ thực hiện những thủ tục pháp lý nhất định và sau đó thì tất cả chỉ có thế. Khi đó thì bạn có thể tìm kiếm trong hư vô công lý và sự bảo vệ ở thành phố bẩn thỉu và khốn khổ nằm cách đường ray xe lửa 50 dặm này. Và, thật sự là vậy, không hề vô lý thậm chí khi nghĩ về công lý mỗi khi tất cả mọi hình thức bạo hành đều được xã hội chấp nhận nhưng là một nhu cầu hợp lý và thiết yếu. và mỗi hành động nhân ái đều được gọi là thừa thãi.
             Sáng hôm sau thì Ivan Dmitritch thức dậy trong một trạng thái sợ hãi tột độ với những giọt mồ hôi lạnh trên trán. Anh ta hoàn toàn tin rằng anh ta có thể bị bắt trong ít phút nữa thôi. Từ khi những suy nghĩ u ám của ngày hôm qua đã ám ảnh anh ta quá lâu, khiến anh ta nghĩ rằng một phần nào đó đã trở thành sự thật. Và nó không thể ở trong tâm trí của anh ta mà không có một lý do hợp lý nào đó.
            Một viên cảnh sát từ từ đi qua các cửa sổ của căn phòng: chắc chắn là không phải để ngắm cảnh rồi. Đây là hai người đàn ông đang đướng tuyệt đối yên lặng gần nhà của mình. Tại sao họ lại im lặng như thế? Những ngày đêm khổ sở đeo bám Ivan Dmitritch. Bất cứ ai đi ngang qua cửa số hay vào khoảng sân trước nhà đều có vẻ như là một điệp viên hay một điều tra viên đối với Ivan. Vào giữa trưa thì cảnh sát trưởng thường lái xe xuống phố với hai con ngựa. Ông ta đi từ nhà của mình ở gần con phố đến sở cảnh sát. Thế nhưng Ivan Dmitritch lại tưởng tượng rằng ông ta lái xe nhanh một cách không bình thường và rằng ông ta có một biểu hiện thật kì lạ. Có cơ sở rằng ông ta đang vội chứng tỏ rằng đang có một vụ ánh cực kỳ nghiêm trọng trong thành phố. Ivan Dmitritch hoảng sở với bất kỳ tiếng chuông hay tiếng gõ cửa và vô cùng cách động khi có người nào mới dọn đến ở trong khu nhà trọ. Mỗi khi anh ta gặp một viên cảnh sát anh ta liền cười và bắt đầu huyết sáo để tỏ vẻ không để tâm đến. Anh ta không bao giờ ngủ được trọn đêm với suy nghĩ rằng mình sắp bị bắt. Nhưng anh ta ngáy rất to để bà chủ nhà nghĩ rằng anh ta đang ngủ rất say. Bởi vì khi anh ta không ngủ được thì có nghĩa là anh ta đang bị dày vò bởi cảm giác tội lỗi – quả là một chứng cứ tuyệt hảo! Những sự thật và bản năng bình thường thuyết phục anh ta rằng những sự kinh hoàng này là vô lý và bệnh hoạn, rằng chỉ cần một lần nhìn vào sự việc một cách tỉnh táo thì thật ra chả có gì kinh khủng khi bị bắt và bỏ tù, chưa kể là cảm giác tội lỗi còn được giảm nhẹ nữa. Nhưng anh ta càng cố suy nghĩ hợp lý và logic thì đầu óc, tinh thần anh ta càng trở nên khổ sở, đau đớn. Chuyện này có thể so sánh với câu chuyện của một vị thầy tu cốt gắng xây một chỗ ở cho mình ở một khu rừng nguyên sơ. Ông ta cằng hăng hái đốn cây bao nhiêu thì khu rừng ngày càng trở nên rậm rạp. Cuối cùng thì Ivan Dmitritch thấy rằng việc đó thật vô nghĩa và bỏ cuộc thôi không suy nghĩ hợp lý nữa, và bỏ mặc bản than mình cho sự thất vọng và sợ hãi.
            Anh ta bắt đầu tránh né mọi người và tìm mọi cách để ở một mình. Công việc thường này của anh ta đã là một sự khốn khổ trước đây, bây giờ nó trở nên không thể chịu đượng nổi. Anh ta luôn sợ rằng bằng cách nào đó nó sẽ khiến anh ta rơi vào rắc rối. Một người nào đó có thể bỏ của hối lộ vào túi anh ta rồi đi trình báo. Hoặc là anh ta sẽ vô tình mắc một lỗi nào đó với những thứ giấy tời và người ta sẽ cho đó là lừa đảo hoặc làm mất tiền của người khác. Thật kỳ lạ là trí tưởng tượng của anh ta chưa bao giờ phong phú và hoành tráng như hiện nay. Mỗi ngày anh ta nghĩ đến hàng ngàn lý do khác nhau để trở nên căng thẳng một cách nghiêm trọng vì lo cho tự do và danh dự của mình. Thế nhưng, mặt khác, những sự hứng thú của anh ta với thế giới bên ngày qua những quyển sách trở nên vô cùng mờ nhạt và trí nhớ của anh ta bắt đầu làm anh ta thất vọng.
            Vào mùa xuân khi tuyết tan. Hai cái xác đã phân hủy được tìm thấy ở một hẻm núi gần nghĩa trang. Đó là xác chết của một người phụ nữ lớn tuổi và một cậu bé trên thi thể có nhiều dấu vết của bạo lực. Thành phố bắt đầu trở nên xôn xao, khi gặp nhau họ không nói bất cứ chuyện gì khác ngoài những cái xác và kẻ giết người còn đang lẩn trốn. Mọi người có thể không nghĩ rằng anh ta là thủ phạm, Ivan Dmitritch đi xuống những con phố, mỉm cười, và khi anh ta gặp một người quen nào đó thì tự dưng anh ta trở nên tái nhạt, ửng đỏ rồi bắt đầu khẳng định rằng không có tội ác nào kinh khủng hơn là sát hại những người yếu đuối và không có khả năng tự vệ. Nhưng sự gian dối này nhanh chóng làm anh ta trở nên kiệt sức, sau khi suy nghĩ kỹ anh ta quyết định rằng ở tình thế của mình hiện giờ thì tốt nhất là phải lẩn trốn ở trong căn nhà trọ của mình. Anh ta ngồi trong phòng trọ cả ngày lẫn đêm và mỗi ngày mới đều trở nên đầy sợ hãi và lạnh lẽo. Anh ta đứng ở chính giữa căn phòng cho đến buổi trưa, lắng nghe một cách chán nản. Một sang tinh mơ, trước khi mặt trời mọc, một số công nhân đi vào nhà. Ivan Dmitritch biết rất rõ rằng họ đến để sửa chửa cái lò ở trong bếp, nhưng nỗi kinh hoàn bảo anh ta rằng họ là những cảnh sát cải trang thành công nhân. Anh ta nhẹ nhàng trượt khỏi căn phòng của mình và sợ hãi đến tột độ, chạy ra phố mà không đội mũ và áo khoác. Những con chó chạy đuổi theo anh ta và sủa ầm ĩ, một người nông dân la ó ở đâu đó phía sau anh ta, gió lùa qua tai và đối với Ivan Dmitritch thì tất cả lực lượng bạo lực trên thế giới đang tập hợp lại với nhau ở phía sau anh ta và đang đuổi theo Ivan sát nút.
            Mọi người chặn anh ta lại và đưa anh ta về nhà, bà chủ nhà mời bác sĩ đến. Bác sĩ Andrey Yefimitch chường gạc lạnh lên đầu Ivan rồi toát mồ hôi, lắc đầu và bỏ đi sau khi nói với bà chủ nhà rằng mình sẽ không đến đây nữa vì ông ta không muốn dính dáng đến một người sắp sửa phát điên. Anh ta không thể sống ở nhà và thuê y tá chăm sóc cho nên chỉ một thời gian sau Ivan Dmitritch được đưa đến bệnh viện và được chuyển vào phòng dành cho những người mắc những bệnh truyền qua đường tình dục. Ban đêm anh ta không thể ngủ được, trong đầu đầy những tưởng tượng hoang đường. Anh ta làm cho những bệnh nhân khác khó chịu và không lâu sau được sự chỉ định của Andrey Yefimitch, Ivan được đưa đến phòng số 6.
            Trong vòng một năm anh ta đã hoàn toàn quên hết quá khứ, quên hết thị trấn, những cuốn sách và bà chủ nhà đã cho giựt sập căn phòng của anh ta.

2 nhận xét:

  1. Hình như bản dịch này không sát với bản dịch tiếng Pháp. Và cũng mới chỉ đến chương III.

    Trả lờiXóa
  2. Bản gốc đoạn cuối tiếng Nga: Через год в городе уже совершенно забыли про Ивана Дмитрича, и книги его, сваленные хозяйкой в сани под навесом, были растасканы мальчишками.
    Dịch là: Một năm sau, thành phố đã hoàn toàn lãng quên Ivan Dmitritch, và những cuốn sách của ông, bà chủ nhà chất đống trong xe trượt tuyết dưới mái nhà kho, đã bị bọn trẻ con khoắng đi hết.

    KHÔNG HIỂU SAO LẠI DỊCH NHƯ TRÊN. KHÓC

    Trả lờiXóa

namkts57@gmail.com