Cánh cửa màu lục
O. Henry
Giả sử bạn đang đi dọc theo Phố Broadway sau bữa ăn tối,
với mười phút để thưởng thức điếu xì-gà trong khi bạn đang phân vân giữa việc cứu
nguy một thảm trạng và làm một việc gì đấy nghiêm túc theo cách trong các vở
hài kịch nhố nhăng. Thình lình có một bàn tay đặt lên vai bạn. Bạn quay lại để
nhìn vào đôi mắt mê hồn của một phụ nữ xinh đẹp tuyệt trần với những kim cương
và lông chồn Nga. Người phụ nữ vội dúi vào tay bạn một cái bánh bơ thật nóng,
rút ra một cái kéo nhỏ xíu, cắt đi cái nút thứ hai trên áo choàng của bạn, thốt
lên “Hình bình hành!”, rồi chạy băng qua đường, ngoái đầu lại một cách kinh
hãi.
Đấy là cả một sự phiêu lưu. Liệu bạn có chấp nhận
không? Chắc là không. Bạn hẳn sẽ ngượng chín cả người, ném ngay mẩu bánh xuống
và tiếp tục đi trên Phố Broadway, lần dò tìm cái nút áo bị mất. Bạn sẽ phản ứng
như thế, trừ phi bạn thuộc số ít người không hề thấy mệt mỏi trong việc theo đuổi
tinh thần phiêu lưu.
Con người phiêu lưu đích thực không bao giờ có nhiều.
Mấy người phiêu lưu được kể trong sách truyện phần lớn là dân thương mại với những
phương pháp mới được khám phá. Họ theo đuổi những gì họ thèm muốn - những bộ
lông thú bằng vàng, những cốc chén linh thiêng, những người yêu quý phái, kho
báu, vương miện và tiếng tăm. Con người phiêu lưu đích thực đi không có mục
đích, không tính toán, để sẵn sàng gặp gỡ và chào đón một định mệnh vô hình nào
đấy.
Con người phiêu lưu nửa vời – can đảm và hào nhoáng –
thì có nhiều. Từ những cuộc Viễn chinh Thập tự đến Palisades, họ đều làm giàu
nghệ thuật về lịch sử và tiểu thuyết cũng như làm giàu cho việc buôn bán tiểu
thuyết lịch sử. Nhưng mỗi người trong bọn họ điều theo đuổi một giải thưởng, nhắm
vào một cái đích, vung một cái rìu, chạy một cuộc đua, khắc một cái tên – vì thế
mà họ không phải là những người đích thực theo đuổi phiêu lưu.
Rudolf Steiner là một người phiêu lưu đích thực. Có rất
nhiều buổi tối anh đi ra ngoài để kiếm tìm những gì bất ngờ và thần kỳ. Đối với
anh, điều lí thú nhất trong cuộc sống là cái gì đấy đang chờ đợi anh ở ngã rẽ
trước mặt. Đôi lúc cái tật sẵn sàng thách thức định mệnh đã lôi anh vào những
tình huống quái dị. Hai lần anh đã phải ngủ đêm tại bót cảnh sát; hết lần này đến
lần khác anh là nạn nhân của bọn lừa đảo thần tình và đâm thuê chém mướn; có
lúc anh bị mất đồng hồ và tiền bạc chỉ vì một vụ phỉnh phờ. Nhưng với tính hăng
say không hề suy giảm, anh vẫn chấp nhận kéo dài thêm bảng thành tích phiêu lưu
rôm rả của mình.
Một buổi tối, Rudolf tản bộ dọc theo hè đường trong một
khu phố cổ của thành phố. Hai dòng người chật ních hai bên hè phố, một dòng hối
hả trở về nhà sau công việc, dòng kia ra khỏi nhà để đi ăn uống trong những nhà
hàng sáng trưng như thể được thắp bằng cả nghìn ngọn nến. Anh thanh niên thích
phiêu lưu trẻ trung đang ngập tràn vui thú, bước đi với dáng vẻ thâm trầm, ngắm
nhìn cùng khắp. Ban ngày, anh là nhân viên tiếp thị cho một cửa hiệu bán đàn
dương cầm. Khi anh đang đi, những âm thanh giống như là do hai hàm răng đánh lập
cập phát ra từ một khung kính khiến anh chú ý (với một ngần ngại) quan sát một
nhà hàng phía trước mặt, nhưng rồi khi nhìn kỹ lại anh thấy bảng hiệu đèn điện
của một phòng nha khoa đặt ở trên cao kế đấy. Một anh chàng da đen khổng lồ, ăn
mặc kỳ quái với một áo choàng vải móc màu đỏ, cái quần màu vàng và một cái mũ
cát két kiểu quân đội, đang kín đáo phân phối những tấm thiệp cho người đi đường
nào muốn nhận lấy.
Rudolf đã quá quen với cánh tiếp thị nha khoa kiểu
này. Bình thường anh không muốn nhận một tấm thiệp tiếp thị nào cả. Nhưng lần
này anh chàng da đen gốc Phi Châu dúi tấm thiệp vào tay anh một cách khéo léo đến
nỗi Rudolf phải nhận mà mỉm cười khen cho cái tay kỹ xảo.
Khi Rudolf đi được vài bước, anh lơ đãng liếc nhìn tấm
thiệp. Anh ngạc nhiên, lật tấm thiệp qua lại, rồi nhìn lần nữa với cả sự chú
tâm. Một mặt của tấm thiệp hoàn tòan trống, mặt kia chỉ vỏn vẹn các chữ viết
tay bằng bút mực: “Cánh Cửa Màu Lục”. Và rồi Rudolf trông thấy, chỉ cách anh
vài bước phía trước, một người đàn ông ném một tấm thiệp xuống đất. Rudolf nhặt
lên. Đấy là một tấm thiệp in tên và địa chỉ một nha sĩ, liệt kê mọi dịch vụ
trám răng, bịt răng, chỉnh răng vẩu, vân vân, và những hứa hẹn đặc biệt về kỹ
thuật “không đau”.
Anh nhân viên tiếp thị với tính thích phiêu lưu dừng
bước tại một góc phố và suy ngẫm. Rồi anh băng qua bên kia đường, đi ngược trở
lại một dãy phố, băng trở lại bên này đường, và nhập vào dòng người lũ lượt. Giả
vờ không hề để ý đến anh chàng da đen, anh ra vẻ lơ đãng nhận tấm thiệp trao
cho mình. Cách mười bước, anh kiểm tra tấm thiệp. Vẫn cũng là những chữ viết
tay bằng bút mực y như tấm thiệp đầu tiên: “Cánh Cửa Màu Lục”. Có ba, bốn tấm
thiệp được vứt trên đường từ từ những người đi trước và sau anh. Mấy tấm thiệp
này đều đưa mặt trống lên trên. Anh nhặt hết lên, lật qua để xem. Tất cả đều
mang dòng chữ in quảng cáo cho ông nha sĩ. Ít khi nào thần Phiêu Lưu phải kêu gọi
Rudolf Steiner - một tín đồ trung thành - đến hai lần.. Nhưng hôm nay thì đúng
là hai lần. Thế là cuộc phiêu lưu bắt đầu.
Rudolf bước chầm chậm trở lại chỗ anh chàng da đen
đang đứng gần, hai hàm răng đánh lập cập. Lần này, khi anh đi qua, anh không nhận
được một tấm thiệp nào nữa. Dù với bộ trang phục quái đản, anh da đen vẫn ra
dáng vẻ tôn quý man rợ theo thiên nhiên, chìa tấm thiệp cho vài người, cho phép
vài người khác đi qua mà không hề phiền nhiễu đến. Cứ mỗi nửa phút, anh lại cất
tiếng khàn khàn hát những câu không ai hiểu nổi ý nghĩa theo cách ồm ộp của mấy
lơ xe và giàn đồng ca hợp xướng. Không những anh ta không muốn trao tấm thiệp
nào, nhưng đối với Rudolf cả tấm thân hộ pháp đen lù lù hình như lộ vẻ lạnh
lùng, gần như đến mức khinh thường miệt thị. Cái nhìn làm nhà phiêu lưu đau
nhói như là bị ong đốt. Anh nhận ra trong sự cáo buộc im lặng có lời kêu gọi đến
anh. Dù gì những chữ viết tay bí ẩn kia có ý nghĩa gì chăng nữa, người da đen
đã hai lần chọn anh trong dòng người bát nháo để trao cho tấm thiệp ấy. Và bây
giờ người da đen có vẻ như lên án anh thiếu tinh thần và chí khí để lao vào cuộc
đánh đố.
Đứng ra ngoài dòng người bát nháo, anh trai trẻ dò xét
một cách nhanh chóng tòa nhà mà anh cho là cuộc phiêu lưu của anh sẽ xảy ra
trong đấy. Tòa nhà cao năm tầng. Một nhà hàng chiếm lấy tầng hầm. Tầng trệt, giờ
đã đóng cửa, xem chừng là hiệu bán mũ mãng hay hàng lông thú. Tầng thứ hai theo
tấm biển chữ đèn điện cho biết, là phòng nha sĩ. Trên nữa là một dãy phố lố nhố
những bảng hiệu viết bằng vài ngôn ngữ khác nhau – nơi cư ngụ của mấy thầy bói
xem chỉ tay, thợ cắt may, nhạc sĩ, và bác sĩ. Cao thêm nữa, những vải màn cửa
và mấy chai sữa tươi đặt trên bệ cửa sổ chỉ định khu vực gia cư.
Sau khi đã có kết luận cho cuộc điều tra của mình,
Rudolf nhanh nhẹn bước lên các nấc thang xây bằng đá dẫn vào tòa nhà. Anh tiếp
tục bước lên một cầu thang trải thảm, và dừng lại khi đã lên đến trên cùng. Hai
dòng khí đốt cháy leo lét soi đường hành lang dài, một ở xa bên phải, một gần
hơn bên trái. Anh nhìn về phía ánh sáng gần hơn và thấy, trong vùng lập lòe, một
cánh cửa mầu lục. Anh ngần ngừ một lúc, và rồi anh dường như trông thấy cái nhếch
môi cười khinh miệt của anh chàng Châu Phi với trò tung hứng mấy tấm thiệp. Thế
là anh bước thẳng đến cánh cửa màu lục và đưa tay lên gõ.
Trong khi chờ đợi là khoảng thời gian đo lường nhịp thở
hào hển của cuộc phiêu lưu đích thực. Có thể không có phiêu lưu gì cả sau cánh
cửa màu lục này! Có thể là dân cờ bạc đang sát phạt nhau; mấy tay anh chị đang
giăng bẫy với bao trò ma mãnh; giai nhân đang độ yêu đương bất cần đời và thế
là muốn tìm của lạ; mối hiểm nguy, cái chết, tình yêu, nỗi thất vọng, trò cợt
nhả - bất kỳ việc gì cũng có thể đáp lại tiếng gõ táo bạo.
Có tiếng sột soạt bên trong, rồi cánh cửa từ từ mở ra.
Một người con gái tuổi chưa đến hai mươi đứng đấy, mặt xanh xao, chân run lẩy bẩy.
Cô buông tay khỏi nắm cửa, người đong đưa một cách yếu ớt, đưa một tay lần mò.
Rudolf đỡ lấy cô gái, đặt cô lên một cái ghế bành đã nhạt màu đặt dọc theo chân
tường. Anh đóng cánh cửa lại và liếc nhìn một vòng quanh căn phòng mù mờ do một
ngọn đèn khí đốt. Anh nhận thấy phòng có vẻ gọn ghẽ, nhưng trông rất nghèo nàn.
Cô gái nằm thiêm thiếp, như là bất tỉnh. Rudolf nhìn
quanh phòng, hồi hộp đợi chờ một nòng súng chĩa vào mình. Phải lăn nạn nhân
trên một cái thùng phuy – không, không, đấy là để cứu nạn nhân khỏi bị chết đuối.
Anh lấy cái mũ của mình quạt cho cô gái. Anh thành công, vì anh lỡ đập vành mũ
vào sống mũi của cô, và cô mở mắt ra. Và rồi người trai trẻ nhận thấy khuôn mặt
cô chính là phần còn thiếu sót trong số các chân dung thân cận trong trái tim
anh. Đôi mắt xám, chân chất, sống mũi nho nhỏ, cong ra ngoài một cách hồn
nhiên; mái tóc nâu, những sợi cong xoắn như các râu ria của một dây đậu - tất cả
dường như là sự kết thúc đúng cách và là phần thưởng cho mọi chuyến phiêu lưu
tuyệt vời của anh. Nhưng khuôn mặt thì gầy gò và xanh xao.
Cô gái nhìn anh một cách từ tốn, rồi mỉm cười. Cô hỏi
yếu ớt:
- Tôi đã ngất đi phải không? Ai lại không như thế? Ông
thử nhịn đói trong ba ngày xem sao!
Rudolf thốt lên, đứng phắt dậy:
- Trời ơi! Cô chờ tôi trở lại.
Anh chạy vụt ra khỏi cánh cửa màu lục, lao xuống mấy bậc
cầu thang. Trong vòng hai mươi phút anh trở lại, dùng chân đá vào cánh cửa để
cô gái ra mở. Cả hai tay anh ôm đầy mọi thứ mua từ cửa hiệu thực phẩm và nhà
hàng. Anh đặt hết lên bàn – bánh mì và bơ, thịt nguội, bánh ngọt, bánh trái
cây, đồ chua, sò biển, một con gà nướng, một chai sữa tươi, có cả trà.
Anh hào hển:
- Thật là điên rồ mà không ăn uống gì cả. Cô phải chấm
dứt cái trò đánh cuộc về kết quả bầu cử ăn thua theo lối tuyệt thực như thế
này. Giờ thì bữa ăn tối đã sẵn sàng.
Anh dìu cô gái xuống chiếc ghế gần cái bàn và hỏi:
- Có cốc uống trà không?
- Trên cái kệ gần cửa sổ.
Khi anh quay lại với cái cốc, anh thấy cô đang bắt đầu
nhai một quả dưa chuột muối khổng lồ mà cô rút ra từ mấy cái túi giấy với trực
giác không nhầm lẫn của phụ nữ. Mắt cô rạng sáng. Anh dành lấy quả dưa chuột từ
tay cô, cười lớn, và rót sữa vào đầy cốc. Anh ra lệnh:
- Cô uống thứ này trước, rồi cô có thể uống ít trà, rồi
có thể ăn một cánh gà. Cô có thể ăn đồ chua ngày mai nếu cô thật khỏe. Và bây
giờ, nếu cô cho phép tôi là khách của cô, chúng ta sẽ cùng nhau ăn bữa tối.
Anh kéo một chiếc ghế khác. Cốc trà làm đôi mắt cô rạng
rỡ hơn và mang lại ít hồng hào cho cô. Cô bắt đầu ăn ngấu nghiến như là một con
thú rừng đã nhịn đói lâu ngày. Dường như cô xem sự hiện diện của người trai trẻ
và việc anh giúp đỡ là điều tự nhiên. Không phải là cô xem nhẹ những quy ước;
chỉ có điều là cơn ngặt nghèo đã cho phép cô bỏ qua mọi điều giả tạo cho con
người. Nhưng dần dần, với sức lực được phục hồi, một ít quy ước cũng đến, và cô
kể cho anh nghe hoàn cảnh của mình. Đấy là hoàn cảnh thường gặp như hàng nghìn
trường hợp khác, thông thường đến nỗi thành phố phải ngáp dài khi chứng kiến –
hoàn cảnh của một cô gái làm chân bán hàng nhận đồng lương tồi tệ, đồng lương
càng bị hụt đi do những món tiền “phạt” để cửa hiệu có thêm lợi nhuận; hoàn cảnh
của đau yếu khiến ngày công bị cắt; và hoàn cảnh của việc mất chỗ làm, mất đi
niềm hy vọng, và rồi - tiếng gõ của nhà phiêu lưu trên cánh cửa màu lục.
Nhưng đối với Rudolf, câu chuyện nghe như là thiên anh
hùng ca thần thoại Hy Lạp, hay như những nỗi đoạn trường. Anh than cho cô:
- Cứ nghĩ đến việc cô phải trải qua nhưng cảnh như vậy…
Cô đáp một cách nghiêm trọng:
- Có những việc khác còn dữ tợn hơn nữa.
- Và cô không có thân nhân hay bạn bè trong thành phố
này sao?
- Không có ai cả.
Sau một chút ngập ngừng, Rudolf nói:
- Tôi cũng cô đơn trên thế gian này.
- Tôi lấy làm vui được nghe như vậy.
Cô nói tiếp ngay sau lời anh, và vô hình dung cô làm
anh vui khi nghĩ rằng cô đã chấp nhận hoàn cảnh thương đau của anh.
Thình lình hai mí mắt cô sụp xuống và cô thở dài nặng
nề:
- Tôi thấy buồn ngủ quá, mà lại cảm thấy dễ chịu lắm.
Rudolf đứng dậy, với lấy cái mũ.
- Thế thì tôi phải từ giã cô. Sau một giấc ngủ dài cô
sẽ khỏe ra.
Anh đưa tay ra, cô bắt tay anh và nói “xin chào anh”.
Nhưng đôi mắt cô ánh một câu hỏi thật hùng hồn, thật thẳng thắn và thống thiết
khiến anh phải đáp lại bằng lời nói.
- À, tôi sẽ trở lại ngày mai để xem tình trạng của cô
ra sao. Cô không thể tống khứ tôi dễ dàng được đâu!
Và rồi, tại cánh cửa, như thể là cách anh đến với cô
kém quan trọng hơn việc anh đã đến, cô hỏi:
- Tại sao anh gõ cửa phòng tôi?
Anh nhìn cô, nhớ đến mấy tấm thiệp, và bất chợt cảm thấy
đau nhói vì ghen tức. Ngộ nhỡ các tấm thiệp ấy rơi vào tay những kẻ cũng có óc
phiêu lưu như anh? Anh quyết định thật nhanh là không cho cô biết sự thật. Anh
sẽ chẳng bao giờ cho cô biết là anh đã chủ động kiếm tìm do cơn hoạn nạn đã
thúc đẩy cô. Anh nói:
- Một nhân viên điều chỉnh đàn dương cầm của công ty
tôi ngụ trong tòa nhà này. Tôi nhầm lẫn gõ cửa phòng cô.
Cái anh ta nhìn thấy cuối cùng sau cánh cửa màu xanh
là đôi mắt của cô.
Đến đầu cầu thang anh dừng lại, đưa mắt tò mò nhìn
quanh. Rồi anh đi dọc hành lang đến tận cùng, rồi anh đi trở lại, lên tầng lầu
trên và tiếp tục xem xét trong nỗi hoang mang. Mọi cánh cửa anh thấy trong tòa
nhà đều sơn màu lục.
Anh vừa đi xuống cầu thang vừa phân vân. Anh chàng
Châu Phi tuyệt diệu vẫn còn đứng đấy. Rudolf đối diện anh với tấm thiệp trên
tay.
- Anh có thể cho tôi biết tại sao anh trao cho tôi hai
tấm thiệp này và ý nghĩa là như thế nào?
Anh chàng da đen cười toe toét dễ dãi và tỏ lộ tài quảng
cáo cho nghề nghiệp bậc thầy của anh ta. Anh chỉ tay về phía xa:
- Đằng kia kìa, sếp. Nhưng em e sếp đến quá muộn rồi.
Nhìn theo tay anh chỉ, Rudolf thấy trên cánh cửa vào một
nhà hát cái biển đèn điện sáng choang cho một vở kịch mới, “Cánh Cửa Màu Lục”.
Anh chàng da đen nói:
- Em nghe nói vở kịch này hay độc đáo. Nhân viên đoàn
kịch thuê em một đô la để phân phát mấy tấm thiệp của họ cùng với thiệp của ông
nha sĩ. Em có thể đưa cho sếp tấm thiệp nha sĩ được không?
Tại góc phố nơi Rudolf đang cư ngụ, anh dừng lại để uống
một cốc bia và hút một điếu xì-gà. Khi anh bước ra với điếu xì-gà cháy trên
môi, anh cài nút áo choàng lại, kéo cái mũ ngược về sau và nói một cách mạnh dạn
với cột đèn ở góc phố:
- Bạn ạ, tôi tin rằng bàn tay của Định Mệnh đã chìa ra
để dẫn tôi đến tìm nàng.
Trong những tình huống như thế này, đấy cũng là kết luận
vững chắc chấp nhận Rudolf Steiner vào hàng ngũ những môn đồ đích thực của Lãng
Mạn và Phiêu Lưu.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
namkts57@gmail.com