Điếu văn
Nam Cao
Thế là xong. Anh chết rồi đấy nhỉ? Không
lẽ tôi lại vui khi được một cái tin như thế. Nhưng thật tôi cũng không biết có
nên buồn không đấy. Có người bảo: "Sống khổ đến đâu, cũng còn hơn chết;
cái tâm lý chung của người đời như vậy".
Tuy vậy, tôi đã buồn. Buồn đến nỗi suốt
một đêm không ngủ được. Thật đấy, anh Phúc ạ. Người ta thường trách tôi vô tình
cảm. Nhầm. Tôi chỉ gớm ghét sự giả trá mà thôi. Mà bởi ghét giả trá quá, tôi lại
thành ra giả trá. Có điều tôi giả trá theo cách khác: tôi cố ý đóng cũi sắt
tình cảm tôi. Thấy người ta thương xót quá dễ dàng, tôi quá sợ lòng thương; thấy
nhiều người khóc quá tài tình, tôi bỗng xấu hổ mỗi khi chực khóc. Tôi có đến
đưa ma anh cũng bằng thừa. Đã có khối người thương tiếc anh. Đã có người vợ trẻ
của anh quăn người lại như một chiếc vỏ bào, và khóc nỉ non như một bản âm nhạc
mới. có lẽ chỉ có hai đứa con anh là chúng không làm thảm thiết quá thôi. Chúng
không gào. Chúng không lăn lộn trên đường như một con đỉa phải vôi. Chúng không
chép miệng, ngoẹo đầu. Chúng ngây ngây, giương đôi mắt ngẩn ngơ. Thỉnh thoảng,
nước mắt chúng mới ứa ra, thì chúng lại vội quệt ngang tay áo. Ấy thế mà chúng
mới chính là những kẻ thương anh nhất. Chúng biết đời anh là đời chúng. Anh chết
đi, chúng chỉ còn một cách, là đi ăn mày.
Anh Phúc ơi! Anh đã thấy chưa? Tôi không
lẫn lộn vào trong bọn người đi đưa đám ma anh, nhưng hồn tôi theo đám ma anh.
Tôi giống như cô gái ngây thơ mới bắt đầu yêu. Cô vờ không để ý, khi người yêu
đi ngang qua cửa nhà cô; nhưng lại len lén nhìn theo rất lâu khi chàng đi khỏi.
Tôi cũng thế. Tôi cố làm thinh khi người ta khóc đưa anh. Nhưng bây giờ đây,
khi mọi người đã im rồi, tôi đóng kín cửa phòng, ngồi một mình trước bàn viết của
tôi, bùi ngùi đưa đám ma anh trong tâm tưởng. Cái đám ma cũng đường trường lắm.
Tôi theo dõi anh, từ lúc chúng ta mới quen nhau cho đến tận lỗ huyệt người ta vừa
vùi anh xuống. Như vậy họa chăng mới có thể gọi là trọn nghĩa.
Tôi gần gũi anh, hồi còn nhỏ. Chúng ta sống
cạnh nhau mấy năm trời tại nhà một bà bác tôi. Anh ở thuê. Tôi nhờ vả. Chúng ta
hiểu với nhau rằng: hai chúng ta cùng khổ. Không, anh Phúc ạ! Chúng ta phải
công bằng mới được. Bà bác tôi không phải là người ác nghiệt đâu. Có điều bà khổ
quá nhiều rồi. Khi người ta phải rỏ từng giọt máu ra để kiếm đồng tiền, thì lẽ
tự nhiên là người ta phải quý tiền ngang với máu. Chồng bà mất sớm. Đã nhiều lần,
bà toan bước đi bước nữađ, nhưng chỉ vì tiếc của, lại thôi. Anh thử nghĩ xem. Đối
với một thiếu phụ đương xuân, còn cái gì khổ hơn sự lẻ loi. Ấy thế mà bà cam phận
lẻ loi để khư khư giữ lấy tiền ở chính tay bà, không muốn để lọt tay ai. Bà mặc
lòng bà héo hắt đi. Bà đày đọa thân bà. Có phải bà cay nghiệt ngay từ với chính
bà mà trở đi không? Còn trách gì cái cách bà đối đãi với chúng ta! Bà keo cú và
tham việc lắm. . . Bà có mỗi một mống con thôi. Ai chả tưởng: quí hơn vàng. Có
lẽ bà cũng quí con. Nhưng không phải vì thế mà bà nới tay với con đâu. Mỗi bữa
ăn bà giao hẹn với con mỗi miếng đậu kho hay mỗi con tôm phải ăn hết một bát
cơm. Không đủ mặc thây. Nó cứ việc ăn cơm nhạt hoặc chan với cái thứ mắm tép mặn
hơn cá muối, mà cả nhà phải ăn quanh năm, suốt tháng. Con đẻ đứt ruột ra còn thế,
còn nói gì tới cháu và đứa ở! Chắc anh cực lắm đấy, anh Phúc nhỉ? Làm gì tôi chả
biết...
Hãy nói ngay rằng: bà bác tôi coi anh
không bằng con trâu anh thường dắt đi chăn. Con trâu là một món tiền to. Nó làm
lợi rất nhiều. Nó chết, người ta phải bỏ ngay ngót trăm đồng bạc tậu con khác về
thay nó. Bởi vậy người ta cần chăm chút nó. Còn anh, anh chỉ là một thằng hèn.
Anh đi còng còng như một ông lão tám mươi. Cái cổ anh thụt vào giữa hai cái vai
rúm ró và xo. Đầu anh ngoẹo về một bên để cái cằm nhọn hếch lên phía bên kia. Cả
một cái thân hình ọp ẹp của anh không đáng một đồng xu. Người ta có cảm tưởng
như nuôi anh là một sự làm phúc đó thôi. Anh chết đi, chẳng thiếu gì đứa nhanh
nhẹn, cứng cát bằng vạn anh. Anh chỉ là đồ ăn hại. . . Ôi chao! Anh ăn hại những
gì? Sáng ngày ra, anh uống nước lã cầm hơi. Bữa trưa, anh được ba lùm lùm bát
cơm ngô hoặc cơm khoai. Bữa tối, người ta lại cho anh vài nắm ngô rang hoặc vài
củ khoai, củ ráy. Kể ra thì bữa nào cũng thòm thèm cả. Chỉ có công việc và những
lời chửi rủa thì bao giờ cũng thừa bứa tứa tát. Xơi không kịp! Anh thức dậy trước
gà và ngủ có lẽ còn sau bọn tuần sương. Biết mình chậm chạp vụng về, lại yếu ớt
quá không thể xốc vác như người ta, anh chỉ chăm chăm chúi chúi làm suốt ngày,
không một phút nào dám nghỉ ngơi. Anh làm cả về đêm. Anh mong lấy sự cố gắng của
chính anh để bù lại sự kém cỏi tự trời sinh; là cốt lấy sự chăm chỉ, sự kiên nhẫn
và nhẫn nại để gợi lòng thương của chủ. Khổ thân anh quá! Tôi thương anh nhất
vào những lúc trở trời hay những tháng mùa đông. Bệnh hen của anh lại dấy lên.
Anh thở cũng đã là một việc khó nhọc lắm rồi. Thế mà anh vẫn dậy sớm, thức
khuya, làm hết việc nhà đến việc đồng, chỉ khác ngày thường một cái là thỉnh
thoảng anh ngừng lại để ho sù sụ, thở rít lên như tiếng bễ, gà gà mắt ra như
người say thuốc lào. Trông anh những lúc ấy chẳng khác gì một con cò chết rét.
Có lần tôi ái ngại quá, bảo anh:
- Ốm quá thế thì nằm nhà đắp chiếu mà
nghỉ có hơn không? Mình ốm, ai nỡ nói?
Anh lắc đầu, nói như người chực khóc:
- Đã đành, ốm thì chắc người ta cũng phải
lo cho mình nghỉ. Nhưng một lần, hai lần còn được, chứ nay ốm, mai ốm thì coi
sao tiện? Người ta thuê mình cho mình làm chứ không phải là để cho mình đắp chiếu
nằm như bố già người ta. Thiệt đến người ta thì người ta phải xót. . . Vả lại
mình ăn cơm, lấy công của người ta, thì mình phải nghĩ.
Tôi chỉ chép miệng, không còn biết nói
sao. Ngừng lại một lát để thở, rồi anh lại thong thả tiếp:
- Ấy, tôi đã phải nghĩ thế mà cũng không
xong đấy. Tôi có dám lười đâu? Thế mà lắm lúc bà ấy còn nói cho như là móc họng,
đến gần phải mửa cơm ra mà trả lại!
Thoáng thấy bóng bà chủ, anh lại vội
vàng làm rất khỏe ra bộ mình chẳng còn ốm đau gì cả.
Mấy năm sau, tuy chẳng bàn nhau mà chúng
ta bỏ nhà bà bác tôi cùng một độ. Tôi ra tỉnh học. Anh tự liệu không đủ sức để
theo nghề làm ruộng, đi học nghề thợ may. Tuy chẳng còn mấy khi được gặp anh,
nhưng xa xa tôi vẫn nhận được những tin tức về anh. Tôi biết đại khái tình cảnh
anh cũng chẳng hơn gì trước mấy. Thôi thì cũng phải vắt mũi đút miệng, được bữa
hôm lo bữa mai, nhưng cái kiếp chúng mình thì chỉ có thế thôi, mong hơn làm sao
được? Một năm kia, người ta bảo tôi rằng: anh mua lại được một cái máy khâu cũ
sáu mươi đồng, nhờ chút tiền dành dụm được từ khi cầm nổi cái kim và ba, bốc chục
nỡ lãi hay tiền nợ non gì đấy. Cũng đáng mừng cho anh lắm! Từ đấy, hình như việc
làm ăn của anh có dễ chịu hơn lớp trước. Một hôm, có chút việc phải về quê, tôi
gặp anh, quấn áo trắng bông, đầu chải mượt, chân kéo lê đôi guốc sà gòong lộc cộc.
Nghĩa là anh "diện" lắm. Tôi lấy làm ngạc nhiên. Tôi tỏ sự ngạc nhiên
ấy với mấy người hàng xóm. Họ mỉm cười, bảo tôi:
- Ai? Phúc ấy à? . . . Còn phải nói! Bây
giờ cậu ấy tơ tuốt ghê lắm nhé! Chết cái không tơ tuốt, lại sợ vợ nó chê, nó phải
lòng thằng khác thì hỏng cả.
Tôi sửng sốt:
- Anh ta cưới vợ rồi! Lấy ai?
- Cái Thửa, con nhà chú Thuận lùn ấy mà!
. . . Con bé tình ra phết! Mà phải biết là đỏng đảnh. Lúc nào cũng cái áo cánh
cát bá, cái yếm cổ xây thật trắng, cái quần lụa buông chùng xuống tận gót chân,
với chùm chìa khoá lúc la lúc lắc. . . Nội bà lý, bà phó trong làng này cũng
không ăn bận sang như nó. Cô đầu cũng không ăn đứt.
- Thế mà nó chịu lấy anh ta?
- Thì còn lấy chó nào được mà chả lấy?
Nó đĩ bỏ cha đi ấy! Hai cái mắt thì lúc nào cũng tít đi, hai cái má thì đỏ tía
tia, cái mồm thì toe toét; động ai hơi nói đùa, nói bỡn một tí đã hơ hớ cười.
Nó nhân tình nhân với trăm thằng, bọn lý dịch chẳng anh nào không thậm thọt ra
vào nhà nó.
Anh cu Phúc thì mê nó tợn, cho nó nào quần
lụa, nào áo cánh xát xi, nào yếm vải phin. . . lại cả tiền nữa ấy! Có thế nó mới
lấy cu cậu vậy, chứ không thì đời nào nó lấy. Trông anh chàng như con giun chết,
không thương được. Cu cậu hỏi năm, sáu đám, có đứa nào nó chịu lấy đâu? Mà toàn
những đứa xấu xí, vấy bờ tre bảy ngày không ai buồn nhặt. Ấy thế mà thánh nhân
đãi khù khờ, tự nhiên với ngay được một con thậy đẹp! ...
Họ nói câu cuối với một vẻ gì mỉa mai.
Tôi buồn rầu, hỏi:
- Thế từ ngày lấy nhau đến giờ, chị vợ
có chịu . . . làm ăn đứng đắn hơn không?
- Làm? Làm gì? Nó thì chẳng bao giờ làm
cả.
- Không! ... Tôi nói... Nghĩa là... chị
ta có tu tỉnh lại, về cái đường kia khác, hay là vẫn chứng nào tật ấy?
- À! Kể thì cũng đỡ... bởi vì anh chồng
chiều tợn nó chẳng bắt làm gì cả, chỉ nhong nhóng suốt ngày, cơm bưng nước rót
đến tận mồm, lắm khi cái quần cái áo thay ra cũng anh chồng giặt hộ.
Ôi thôi! Thế thì hỏng mất! Tôi đã gần buột
miệng kêu lên thế. Bởi vì tôi vốn biết anh là một người hay gắng gượng. Anh đã
gắng gượng lấy sự chăm chỉ, sự nhẫn nhục để bù lại cái sức yếu của anh để gợi
lòng thương của bà chủ ngày xưa, thì bây giờ anh lại gắng gượng lấy sự nuông
chiều, sự hạ mình cố bù lại sự kém cỏi về dung mạo của mình, để mong giữ được
lòng yêu của cô vợ đẹp. Gợi lòng thương của một người chủ tham lam còn khó lắm
thay! Còn nói gì đến sự gợi lòng yêu của một người đàn bà đẹp, lẳng lơ và nhẹ dạ?
Hỡi ôi! Trời thật bất công khi dựng ra cái đẹp và cái xấu. Loài người thích đẹp,
ghét xấu đã phụ họa vào sự bất công của trời! Trong lúc thương anh quá, tôi
nghĩ vơ nghĩ vẩn, đến mất cả lý trí và gần thành một thằng dở hơi...
Bẵng đi một dạo rất lâu, tôi không trở lại
quê nhà, để bây giờ lại về ở hẳn đây, như một người già cả. Tôi đã gần quên hẳn
anh rồi. Nào có phải là tôi là người chóng nhạt tình đâu, nhưng bây giờ tôi
cũng đã có vợ, có con, có cả một gia đình. Tôi có bao nhiêu cái khổ của tôi.
Chúng hút tất cả ý nghĩ của tôi, khiến tôi sống như kiểu một người ích kỷ. Óc
tôi chẳng còn một phút nào được rảnh rang để nhớ đến người bạn khổ sở hồi thơ ấu...
Bỗng đùng một cái, tôi nghe tin anh chết.
Mà chết như thế nào!... Anh ốm bốn tháng nay. Cái bệnh hen kinh niên lại phát
ra, như thường lệ mọi năm, nhưng lần này dữ dội hơn. Anh chỉ còn làm được một
việc thở mà thôi. Tiền dành dụm mòn dần, rồi hết hẳn. Rồi cái máy cũng phải bán
đi. Người vợ đẹp của anh, hai con rồi mà vẫn còn trẻ mau mảu, vẫn phải ăn, phải
tiêu, phải mặc áo yếm trắng bong và quần lụa chùng sát đất. Anh không thể cung
cấp cho thị nữa, thì đã có một anh thợ húi đầu cung cấp. Thị bỏ anh nằm chết
khô, chết nỏ đi suốt ngày đêm. Hai đứa con anh, ẻo lả như một cái lá úa và buồn
như một tiếng thở dài ngồi củ rủ nhìn anh bằng đôi mắt dại đi vì đói quá. Chúng
ngáp luôn luôn. Gian nhà tối ẩm, đầy mùi bệnh tật và bừa bộn rác rưởi, muỗi ruồi.
Chỉ có những con ruồi là còn có vẻ sống, có vẻ hoạt động và khỏe mạnh giữa cái
thế giới ốm yếu ấy, đã chìm một nửa vào cõi chết. Người ta nghe thấy những tiếng
thở rốc lên, những tiếng rên và những tiếng chép miệng liên hồi. Anh nhạt miệng
hay chán nản cho số kiếp? Thỉnh thoảng đôi mắt gà gà của anh lại cố mở to ra, lần
lượt đưa về phía hai đứa trẻ rồi đưa ra phía cửa. Bên ngoài trời rất đẹp. Nắng
tưng bừng. Một đàn sẻ chí choé cãi nhau như một lũ trẻ con tập làm người lớn:
chúng xỉa xói, chúng chanh chua, chúng cướp lời nhau một cách vui vẻ và ầm ỹ.
Chim đực, chim cái gọi nhau. Những con chim non cũng đua đòi. Một con ve lanh lảnh
này trả lời con ve lanh lảnh khác. Ôi chao! Đời vui quá! Muôn loài sống mạnh mẽ
và sung sướng. Không gian là một đám hội xôn xao và rực rỡ. Anh nằm trong đây,
như một cái xác chết trong mả lạnh, chua chát nghĩ rằng: mình không ăn nhập gì
đến cảnh đùa vui của người.... Đôi mắt anh chìm dần, chìm dần để mờ đi. Đôi mi
tím nhạt đã căng lên. Chúng che cảnh hiện tại đi để một cảnh khác tỏa ra. Anh
mơ hồ nghe tiếng trống chèo ở xa văng vẳng. Ấy là anh đang nằm nhớ lại những
ngày làng vào đám. Chung quanh đình tấp nập... Người vợ anh cười cợt giữa chỗ
đông đảo ấy với những anh trai làng chớt nhả bẻm mép... Còn anh thui thủi nằm
nhà để quạt cho hai con ngủ, để khàn khàn ru mỗi khi thằng bé giẫy, và để thỉnh
thoảng thở dài khi hơi thở nhẹ nhàng của nó lại trở nên đều đều.... Anh đã chịu
đựng tất cả những nỗi đau đớn âm thầm ấy, không một lần hé răng oán thán. Nhưng
lúc này, cái lúc anh gần chết mà vợ anh vẫn không đoái tưởng đến anh một chút,
anh thấy nghẹn ngào, uất tức. Cổ anh tắc lại. Hơi thở bị nghẽn một lúc rồi lại
bật được ra, rốc lên hơn trước. Ngực anh như có một phiến đá nặng đè lên. Chân
tay anh lạnh toát đi. Người anh bộn rộn bồi hồi. Mồ hôi lạnh dâm dấp trán. Đờm
kéo lên sòng sọc trong cuống họng. Anh chết mất! Anh chết mất! Anh không còn thở
được!... Đôi mắt hoảng hốt của anh chực mở ra. Nhưng mí mắt nặng lắm rồi: anh
phải cố mới gạt được chúng lên. Đôi mắt mất thần cuống quít tìm hai đứa trẻ. Mồm
anh ú ớ... Giữa lúc ấy thì cái phên liếp động. À! Vợ anh, người vợ đẹp của anh
đã về. Anh lịm người đi, chẳng biết vì sao. Đôi mắt anh nhắm lại. Anh không muốn
nhìn mặt nó? Nhưng kìa nó đã lại đầu giường anh với một vẻ buồn rầu giả dối.
Cái thứ tiếng ngọt như đường của nó lại gọi anh:
- Thầy em ơi!
Đôi mắt anh mở từ từ. Chúng trợn ngược
lên để nhả tất cả nỗi oán trách vào mắt nó. Trong lúc ấy nó nghĩ gì? Rồi không
biết nó còn tìm đâu được mấy giọt nước mắt để vãi ra. Nó đặt bàn tay lên ngực
anh và mếu máo:
- Thầy em ơi! Thầy em ơi!...
Tiếng gọi thất thanh của nó làm anh thổn
thức. Anh nức nở trong ngực. Anh đã lại muốn tha thứ, tha thứ hết. Nước mắt anh
ứa ra đầy mắt...
- Thầy em ơi! Thầy em làm sao thế?
Anh lắc đầu... Không phải là cái lắc đầu
giận dỗi đâu. Đó là cái lắc đầu thất vọng. Anh biết anh không còn sống nữa. Anh
tiếc vợ. Anh tiếc đời... Nhưng chút tình thương - thành thực hay giả trá - của
con vợ đẹp đã làm anh sống lại. Anh lại nói được, và anh nói:
- Tôi chết mất! Thế nào tôi cũng chết...
Tôi chỉ còn thèm một bát chè đỗ đen. Nếu có thì bu em cho tôi một bát để tôi ăn
cho mát ruột rồi tôi chết.
- Nhà không có đường. Mà nấu cũng không
kịp. Để tôi đi xem đâu có, mua cho thầy em một bát...
Vừa nói nó vừa mải mốt đi lấy bát. Nó
tong tả chạy ra khỏi cửa. Anh nghe tiếng vạt áo nó bay soàn soạt và chân nó chạy
bình bịch. Chưa bao giờ nó tử tế với anh như vậy, nhưng anh đã quên tất cả, và
cứ tưởng tượng suốt đời nó toàn tử tế với anh như vậy. Anh càng thêm tiếc đời....
Chao ôi! Giá anh đã được ăn bát chè kia!
Biết đâu anh đã chẳng mát lòng, mát ruột mà sống được? Nhưng vợ anh đi lâu quá.
Nó đã gặp gỡ một cái gì ở trên đường làm nó lãng quên anh. Hay một kẻ nào đã
ngăn cản nó làm bổn phận cuối cùng đối với một người chồng đã hết lòng với nó?
Anh không còn sức đợi. Cái chết bị kìm lại trong một phút, lại bắt đầu chuyển động.
Nó tiến dần, tiến dần, từ chân lần tới đùi, rồi tới bụng, rồi tới ngực... Anh lại
hoảng hốt. Đôi mắt anh cố nhìn mãi... Nhưng anh đã chẳng còn nhìn rõ nữa. Ánh
sáng lung linh, lung linh. Không gian bập bềnh như một cái thuyền. Mắt anh loá
ra. Chúng mờ đi. Mọi vật xóa nhoà. Có lẽ nào như thế được? Anh uất ức. Anh ứ
nghẹn. Anh cố kêu lên một tiếng, nhưng không được. Anh u ú ằng ặc. Đờm đã bịt
chặt ống khí quản rồi. Anh ngạt thở. Anh cuống cuồng, anh sợ hãi, anh bứt rứt,
anh choáng váng.... Ôi thôi! Anh chết rồi!
Bây giờ thì sự im lặng bất tuyệt đã bịt
chặt đôi tai anh, chán nghe những lời mai mỉa của đời rồi. Bóng tối phủ kín đôi
mắt anh, mở thao láo nhiều đêm để nhìn trong bóng tối những cảnh nó làm anh nhục
nhã. Anh đã có thể dửng dưng đối với những chuyện của loài người. Vậy thì anh
Phúc ơi! Anh hãy nghỉ cho yên! Những chuyện đời này bây giờ chỉ còn là của
chúng tôi. Chúng tôi, những kẻ đã đau khổ, đã uất ức, đã ước ao, đã khát thèm,
đã thất vọng và vẫn hy vọng mãi và phải hy vọng mãi. Sự đời không thể cứ mù mịt
mãi thế này đâu. Tương lai phải sáng sủa hơn. Một rạng đông đã báo rồi. Một mặt
trời mới sẽ mọc lên trên nấm mồ anh và bên trên đầu hai đứa con côi anh để lại.
Một bàn tay bè bạn sẽ nắm lấy bàn tay chúng và dắt chúng cùng đi tới một cuộc đời
đẹp hơn.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
namkts57@gmail.com