Truyện ngắn dịch
       
Thơ
       
Thơ dịch Truyện ngắn khuyết danh Truyện ngắn Truyện dịch cực ngắn
       
12/3/12

Thằng bé gián điệp - Alphonse Daudet

Thằng bé gián điệp
Alphonse Daudet
Phan Mật dịch

                Thằng bé tên là Tĩnh.
            Bé Tĩnh sinh trưởng ở Ba - Lê. Hình dáng mảnh khảnh, nước da xanh xao, nó khoảng mười tuổi, có thể mười lăm, với những trẻ ốm yếu như nó, khó mà đoán tuổi. Mẹ nó mất sớm, cha là một cựu binh sĩ Hải quân, bây giờ quản lý một công viên ở thủ đô. Những bé con, những chị vú, những bà mẹ nghèo, những bà lão bán hàng rong, tất cả đám bình dân hèn yếu của Ba - Lê thường đến núp mưa, núp nắng đàng sau những chiếc xe đậu dọc theo những luống hoa, những lề đường trong công viên, đều biết bác Tĩnh và kính nể ông.
            Mọi người đều biết dưới chòm râu mép cứng, chòm râu mép làm cho bầy chó và lũ nhãi ranh khiếp sợ, có ẩn một nụ cười âu yếm, gần như nụ cười của bà mẹ hiền, và muốn thấy nụ cười ấy, người ta chỉ cần hỏi ông lão câu hỏi nầy:
            “Dạo nầy bé Tĩnh của bác có khỏe không?”
            Bác Tĩnh yêu thằng nhỏ của bác lắm. Bác sung sướng mỗi khi tan học, bé tới công viên gặp bác và hai cha con dạo quanh trên những con đường rải sỏi, hai bên lề chen chúc các sắc hoa, chào hỏi những kẻ quen thuộc đang ngồi hóng mát.
            Chiến tranh xẩy đến, tất cả đều thay đổi. Công viên đóng cửa và biến thành kho chứa xăng và bác Tĩnh phải thường xuyên canh gác, suốt ngày bác quanh quẩn bên những luống hoa, những chòm cây vắng vẻ, cô đơn, không hút thuốc, tối đến, cha con mới gặp nhau ở nhà. Bởi vậy, khi bác nói đến bọn lính Đức mới trông thấy chòm râu mép của bác ... Bé Tĩnh thì không hề phàn nàn về cuộc sống mới nầy.
            Chiến tranh ! Giới nghiêm ! Đối với trẻ con thì đây là cơ hội vui thích. Không phải đi học, tha hồ chơi đùa, đường phố giống như chợ phiên. Bé Tĩnh suốt ngày chạy lang thang đây đó. Nó đi theo những đoàn quân tập trận, chọn những đại đội nào có ban nhạc xuất sắc. Nó tỏ ra thông thạo trong sự phê bình nghệ thuật. Như nó có thể nói với bạn là dàn nhạc đại đội 96 kém, còn dàn nhạc đại đội 55 trổi nhất.
            Và nó còn phải sắp hàng ...
            Tay xách giỏ, bé Tĩnh lẫn lộn trong đám đông, nối đuôi nhau thành hàng dài trước những cửa hàng thịt, hàng bánh mì, vào những sáng sớm mùa đông lạnh buốt.
            Hai chân dầm nước, mọi người làm quen với nhau, trò chuyên về cuộc sống hàng ngày, về chính trị, người ta thường hỏi ý kiến nó vì nó là con bác Tĩnh. Nhưng vui thích hơn là những cuộc đánh đáo, một trò chơi do nghĩa quân miền Bắc phổ biến ở đây. Khi bé Tĩnh không xem tập trận hoặc không sắp hàng trước cửa hàng bánh mì thì bạn tin chắc là nó đang xem đánh đáo ở Tháp nước. Dĩ nhiên, nó không chơi vì muốn chơi phải có nhiều tiền..., nó chỉ biết nhìn người ta chơi.
            Có một thằng cao lớn mặc áo xanh quen đặt cuộc với những đồng trăm xu khiến nó thánh phục. Khi gã nầy chạy, người ta nghe những đồng bạc kêu leng keng trong túi áo ...
            Một hôm, thằng lớn tới lượm một đồng bạc rơi và lăn dưới chân bé Tĩnh, nó nói nhỏ với bé Tĩnh:
            - Mầy thèm những đồng bạc nầy lắm phải không ? Nếu mầy muốn, tao sẽ chỉ chỗ cho mầy lấy.
            Cuộc chơi vừa mãn, thằng lớn kéo bé Tĩnh ra một chỗ vắng người, đề nghị đi theo nó bán báo cho bọn lính Đức, mỗi lần đi bán thu được 30 phật lăng.
            Bé Tĩnh nghe nói, bất bình nên ở nhà ba ngày liền không tới chơi với thằng lớn. Ba ngày ghê sợ ! Nó không ăn, không ngủ. Đêm đêm, nó nghe thấy những cuộc đánh đáo vui thú, những đồng trăm xu sáng loáng chạm nhau kêu leng keng. Sự cám dỗ quả là mãnh liệt. Sang ngày thứ tư, không nén lòng được, bé Tĩnh trở lại tháp nước, gặp thằng lớn và thuận đi theo nó ...
            Hai đứa khởi hành vào một buổi sáng tuyết rơi, chiếc xắc vải trên vai và những tờ báo giấu kín trong áo ấm. Khi chúng tới Phơ - lăng thì trời vừa sáng. Thằng lớn nắm tay bé Tĩnh và tiến lại gần anh lính gác, một gã độc thân có cái mũi đỏ và vẻ mặt hiền từ, nó nói với giọng người nghèo đói:
            - Thưa bác, bác cho chúng cháu qua. Cha chúng cháu chết và mẹ thì bệnh nặng. Anh em chúng cháu xin tới cánh đồng bên kia để lượm khoai về ăn.
            Nó vừa nói vừa khóc. Còn bé Tĩnh thì hổ thẹn, gục đầu xuống. Anh lính gác nhìn hai đứa trẻ một lát, liếc mắt trông ra con đường vắng lặng và phủ tuyết trắng.
            - Đi nhanh lên, anh lính gác bảo.
            Bây giờ hai đứa trẻ đã ở trên đường đi Ô-bơ-vilê. Thằng lớn cười hí hởn.
            Như trong giấc mơ, bé Tĩnh thấy những nhà máy đã biến thành những trại lính, những ống khói cao vút lên trời, chọc thủng sương mù, sứt mẻ, trống rỗng, lạnh tanh. Xa xa, có vài lính tuần, những viên sĩ quan đầu, mặt trùm kín, nhìn đàng trước với những ống dòm, những chiếc lều vải ướt đẫm tuyết tan, trước những đống lửa đang tàn lụi.
            Thằng lớn thuộc đường, đi băng qua cánh đồng để tránh lính gác, những bót gác. Tuy vậy, chúng vẫn không tránh được một tiền đồn tuần thám của đoàn nghĩa quân. Những nghĩa quân choàng áo mưa, ngồi chồm hổm dưới một cái hố đầy nước, dọc theo đường sắt Xoát xông. Lần nầy, thằng lớn cố giở lại chuyện lượm khoai của nó, người ta vẫn không cho hai đứa trẻ đi qua.
            Trong lúc nó kể lể thở than thì trong nhà của người gác cổng xe lửa, một trung sĩ già bước ra, mặt nhăn nheo, tóc bạc phơ, trông giống như bác Tĩnh.
            - Mấy cháu đừng khóc nữa, ông trung sĩ bảo hai đứa, người ta sẽ để cho hai cháu tha hồ lượm khoai. Nhưng mà trước hết, hai cháu vào đây sưởi ấm một chút đã ... Tội nghiệp thằng nhỏ lạnh cóng.
            Bé Tĩnh không run vì lạnh, mà vì sợ, vì xấu hổ ... Trong đồn, hai đứa trông thấy những binh sĩ ngồi co ro quanh một đống lửa yếu. Họ ghim những miếng bánh bích quy bị đông lạnh trên mũi lưỡi lê và hơ lửa. ANh em binh sĩ ngồi sát nhau, nhường chỗ cho hai đứa trẻ. Họ còn cho hai đứa uống cà phê. Trong lúc hai đứa uống, một viên sĩ quan tới trước cửa, gọi ông trung sĩ, nói nhỏ rồi bỏ đi nhanh.
            Ông trung sĩ trở vào, mặt hớn hở, nói với anh em lính:
            - Tối nay sẽ có thuốc hút (1). Bên mình đã bắt được mật mã của bọn Đức. Tôi tưởng lần nầy chúng ta sẽ chiếm lại thị trấn Buốc - rê.
            Mọi người vui cười, hoan hô rầm rộ, ca hát, nhảy múa, lau chùi lưỡi lê sáng loáng. Và thừa lúc lộn xộn, hai đứa trẻ biến mất.
            Qua khỏi chiến hào, chúng đặt chân lên một cánh đồng mênh mông. Cuối cánh đồng là một bức tường trắng, dài, lổ chổ những lỗ châu mai. Hai đứa nhắm bức tường tiến tới, cứ mỗi bước thì dừng lại, cúi xuống, giả vờ lượm khoai.
            - Chúng ta trở về thôi. Đừng đi nữa, bé Tĩnh hối thúc mãi.
            Thằng lớn không nghe, cứ tiến tới. Bỗng chúng nghe tiếng lên đạn lắc cắc của một khẩu súng.
            - Nằm xuống, thằng lớn vừa bảo vừa nằm xuống đất.
            Nó huýt gió, Một tiếng huýt gió đáp lại. Chúng vừa bò vừa tiến ... Trước bức tường, sát đất, hiện ra hai chòm râu mép vàng dưới chiếc mũ lấm láp. Thằng lớn nhảy xuống hầm, gần tên lính Đức.
            - Em tôi đây, nó chỉ bé Tĩnh, nói.
            Bé Tĩnh nhỏ quá nên vừa trông thấy, tên lính Đức bật cười và phải xốc nó đưa lên miệng hầm.
            Đàng sau bức tường là những ụ đất cao, những cây đốn ngã nằm, những lỗ đen trong tuyết và trong mỗi lỗ đen cũng chiếc mũ dơ dáy, cũng chòm râu mép vàng mỉm cười khi trông thấy hai đứa trẻ đi qua.
            Trong một góc, có căn nhà của người làm vườn, chung quanh chồng chất những thây cây to để đỡ đạn. Tầng dưới chật ních những binh sĩ đang đánh bài. Ở nhà bếp đồ ăn đang nấu trên ngọn lửa đỏ rực, mùi thịt nướng, mùi bơ, mùi khoa chiên bay thơm phức. Cuộc sống êm ấm ở đây thật khác với cảnh cắm trại ngoài trời của nghĩa quân ! Tầng trên dành cho sĩ quan.
            Họ uống rượu sâm banh, chơi dương cầm. Hai đứa trẻ được đón tiếp niềm nở... Chúng trao nhật báo cho bọn Đức và được uống rượu. Bọn sĩ quan đều có vẻ kiêu ngạo và dữ tợn. Nhưng trong câu chuyện, thằng lớn xài những tiếng lóng của bọn du đảng, lưu manh làm cho chúng vui thích. Chúng nhại những tiếng tục tỉu thằng lớn nói ra, thích thú lăn ra cười.
            Bé Tĩnh cũng muốn nói để chứng minh nó không phải là một thằng ngốc, nhưng có một cái gì ngăn cản nó. Trước nó có một sĩ quan Đức ngồi riêng, tuổi cao hơn, nghiêm nghị hơn, đang đọc hay giả vờ đọc, vì hai mắt ông nầy không rời bé Tĩnh. Trong cái nhìn của viên sĩ quan cao niên có niềm âu yếm xen lẫn sự quở trách, hình như ở nhà, ông ta cũng có một đức con đồng lứa tuổi với bé Tĩnh và ông tự bảo:
            “Thà chết còn hơn trông thấy con mình làm một việc như vậy ...”
            Từ đây, bé Tĩnh cảm thấy như có một bàn tay đặt lên trên quản tim nó, không cho tim đập.
            Để trấn áp mối khắc khoải, bồn chồn, bé Tĩnh bắt chước uống rượu. Hơi men chếnh choáng, nó trông thấy mọi vật quay tít chung quanh. Nó nghe lờ mờ, giữa những tiếng cười nham nhở, bạn nó nhạo báng lính Pháp, lối tập dượt quân sự, nhại lại một cuộc diễn binh ở Mare, một vụ báo động ban đêm trên chiến lũy. Rồi thằng lớn hạ giọng, bọn sĩ quan lại gần nó lắng nghe và nét mặt bọn chúng trở nên nghiêm nghị. Thằng khốn nạn đang báo cho quân Đức biết đêm nay nghĩa quân sẽ tấn công ...
            Bé Tĩnh nghe vậy, tự nhiên hết say, đứng lên, giận dữ, bảo:
            - Im đi, đừng nói nữa. Tôi không muốn đâu. Về đi thôi !
            Nhưng thằng kia cứ cười và tiếp tục nói. Nó nói chưa dứt lời thì bọn sĩ quan đều đứng dậy. Một người chỉ cửa cho hai đứa trẻ và bảo:
            - Đi ra, nhanh lên!
            Bọn sĩ quan nói chuyện với nhau rất nhanh, bằng tiếng Đức. Thằng lớn đi ra, vẻ mặt vênh váo, cố làm cho những đồng bạc kêu leng keng. Bé Tĩnh đi theo, cúi gầm mặt xuống. Khi nó đi qua trước viên sĩ quan Đức đã có cái nhìn làm cho nó áy náy, nó nghe thốt ra những tiếng buồn buồn : “Làm dậy hôn tốc ... hôn tốc “ (Làm vậy không tốt, không tốt).
            Hai hàng nước mắt chảy ràn rụa trên má nó.
            Ra đến cánh đồng, hai đứa trẻ bắt đầu chạy. Xấc của chúng đầy khoai do bọn lính Đức cho. Nhờ đó, hai đứa đi qua trót lọt chiến hào của nghĩa quân. Quân Pháp đang chuẩn bị cho cuộc đột kích ban đêm. Có những toán quân mới chuyển tới, im lặng, chen chúc đàng sau những bức tường cao. Ông trung sĩ già cũng có mặt ở đây, ông đang bố trí binh lính dưới quyền chỉ huy của ông, coi bộ ông vui vẻ lắm. Khi hai đứa trẻ đi qua, ông nhận ra và tặng cho chúng một nụ cười hiền dịu.
            Ôi ! nụ cười làm cho bé Tĩnh đau xót làm sao ! Có lúc nó định la lên:
            “Đừng đi tới đó ... chúng tôi đã phản bội các ông”.
            Nhưng thằng kia đã dọa nó : “ Nếu mày nói, chúng ta sẽ bị bắn chết”, và vì sợ nên nó đành ngậm câm...
            Tới Cua nơ, hai đứa trẻ vào trong một căn nhà bỏ trống để chia tiền. Sự thực bắt buộc tôi nói là sự phân chia được công bằng và vì tiếng những đồng bạc quý kêu leng keng trong túi áo, nghĩ đến những cuộc đánh đáo hấp dẫn sau nầy, bé Tĩnh không còn thấy tội ác của nó đáng ghê tởn quá nữa.
            Nhưng khi thằng lớn từ giã nó, khi bé Tĩnh thấy nó còn một mình thì những túi áo của nó bắt đầu nặng trĩu, và bàn tay đè lên tim nó siết mạnh hơn bao giờ hết. Balê không như trước. Những kẻ qua đường nhìn nó với vẻ nghiêm khắc, hình như họ biết nó vừa từ đâu về. Hai tiếng gián điệp, nó nghe trong tiếng những bánh xe lăn trên đường, trong hồi trống quân nhạc gióng lên dọc theo con rạch. Và cuối cùng, nó về đến nhà, nó lấy làm sung sướng thấy cha nó chưa về, nó mau mắn lên phòng ngủ, cất giấu dưới gối những đồng bạc đang làm cho lương tâm nó ray rứt. Chưa có lúc nào bác Tĩnh vui vẻ, bằng lòng bằng tối hôm ấy khi bác về nhà. Có những tin vui từ các mặt trận đưa về. Đang ăn, lão cựu chiến binh nhìn khẩu súng treo trên tường, vui cười nói với con:
            - Này con, ước gì con lớn, con đi đánh giặc Đức như anh em nghĩa quân.
            Đến tám giờ, nghe tiếng đại bác rền vang.
            - Quân ta giao chiến với quân Đức ở Buộc Rê, bác Tĩnh nói, bác rõ hết các đồn lũy trong vùng. Mặt bé Tĩnh tái xanh, nó nói dối trong người quá mệt, nó bỏ đi nằm, nhưng không ngủ. Đại bác vẫn nổ. Nó tưởng tượng đoàn nghĩa quân xuất trận trong đêm, để tấn công bất ngờ quân Đức, bị lọt trong ổ phục kích của địch. Nó nhớ tới ông trung sĩ già đã vui cười với nó hiện đang ngã gục trên tuyết và còn biết bao binh sĩ cùng bỏ mạng với ông. Cái giá của tất cả máu xương ấy được cất giấu dưới gối nó, nó là con của bác Tĩnh, một cựu chiến binh .... Nó uất ức, nghẹn ngào, khóc không ra tiếng. Trong gian phòng bên cạnh, nó nghe ba nó đi lại, mở cửa sổ. Ở dưới, trên quảng trường, tiếng kèn tập hợp vang lên, một đại đội lưu động đang điểm danh để xuất trận. Nhất định đây là một trận đánh lớn. Thằng bé khốn khổ khóc òa.
            - Sao vậy con ? Bác Tĩnh vào phòng nó và hỏi.
            Thằng bé không chịu được nữa, nhẩy xuống giường, tới quỳ chân ba nó. Trong lúc vội vã, nó đánh rơi những đồng bạc xuống đất.
            - Cái gì vậy ? Con ăn cắp hả ? ông già run lẩy bẩy hỏi.
            Bé Tĩnh liền kể lại một hơi, nó đã đi tới doanh trại quân Đức như thế nào và nó đã làm gì ở đó. Nó càng nói, nó càng thấy lòng nó nhẹ nhỏm. Thường tình hễ biết thú tội thì tội nghe nhẹ đi ... Bác Tĩnh lắng nghe con nói, vẻ mặt dữ dằn. Khi con đã nói hết, ông lấy tay ôm mặt, khóc nức nở.
            - Ba, ba ! thằng con gọi.
            Ông lão không đáp, đẩy nó ra và cúi lượm những đồng bạc.
            - Có chừng nầy phải không? ông hỏi .
            Bé Tĩnh ra dấu là chỉ có chừng ấy. Ông lão lấy khẩu súng, túi đạn xuống và bỏ bạc vào túi, nói:
            - Tốt lắm, ba sẽ đem trả cho chúng.
            Và không nói thêm một tiếng, cũng không ngoảnh mặt lại, ông ung dung xuống lầu, gia nhập đoàn nghĩa quân xuất hành trong đêm tối. Từ đó, người ta không thấy bác Tĩnh trở về.
(1) Tiếng lóng ý nói sẽ có tấn công, giao chiến.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

namkts57@gmail.com