Vườn hạch đào
Giả Bình Ao
Lê
Bầu dịch
Ông La Lục Tử, phó bí thư một công
xã ở Thượng Châu. Năm 58 tuổi, đầu tóc, râu ria đều trắng xóa, lại thêm chiếc
chân này ngắn hơn chiếc chân kia rất nhiều, lưng không thẳng lên được, nên
trông càng hom hem. Con gái là thợ làm đầu, đã từng nhuộm tóc cho ông một lần,
kết quả lại càng thêm thảm hại: Trên cùng một cái đầu, tóc ở bên trên thì đen,
râu ria ở bên dưới lại trắng, nên cứ hai ngày phải cạo râu một lần. Do da cằm
nhũn nhão, nên cạo mặt thường bị phạm, chảy máu nhiều chỗ, nên người ta thường
nói khích ông:
- Bí thư La, ông định tự tử hay sao
thế? Tự tử mà cũng không tìm được đúng chỗ sao?
La Lục Tử đáp:
- Tôi muốn tự tử á? Chuyện ấy khó
gì?
La Lục Tử nói thế, cũng chằng phải
ông nói tầm bậy cho xong chuyện, thực ra ông từng đã có ý định tự tử rồi đấy
song đó là chuyện của nhiều năm về trước. Về sau ông lại cảm thấy hổ thẹn: Tự
mình kết thúc cuộc đời mình, đâu phải là trách nhiệm của con người; một sợi
thùng, một miệng giếng, hoặc vài chục viên thuốc ngủ, rồi mê mẩn đi... thế là,
không còn phái là La Lục Tử nữa rồi.
Từ đấy ông không còn đi nhuộm tóc nữa.
Năm năm mươi chín tuổi, ông về hưu non. Con gái, con rể đều làm cho nhà nước,
có lòng tốt muốn đón ông lên huyện ở cùng, nhưng ông không tán thành, mà ông nhất
quyết trở lại bình nguyên Quan Trung quê cũ.
Đất hoàng thổ chôn vùi bố, thì dù có
làm hồn núi, cũng vẫn thấy yên tâm hơn.
Con gái, con rể nói:
- Bố đã từng làm việc ở vùng sơn địa
ba chục năm, núi ở đây, nước ở đây và không khí ở đây không hơn vùng bình
nguyên đó sao?
Ông thở dài:
- Cái chân của bố...
Lý do duy nhất và cuối cùng của ông
là cái chân què. ở vùng sơn địa, sự “dãi ngộ” đối với những người tàn phế, và
những quan chức là thế này: Họ chỉ gọi họ mà không bao giờ gọi tên. La Lục Tử lại
rơi vào cảhai trường hợp ấy ở trụ sở công xã, ở trên bàn hội nghị, trước mặt
ông, họ gọi ông là “La bí thư”, nhưng trong xóm ngõ, trong bếp núc, sau lưng
ông mọi người gọi ông là “La Què”, nhất là trên con đường cái quan trái nhựa thẳng
tấp, và hai bên đường là những hàng dương cao vút, ông từ xa đi tới, bước thước
tư, bước thước bẩy (ba
thước ăn một mét. ND)
mọi người chế diễu ông là đôi chân không nhất trí, và ông chê mặt đường trải lệch.
Năm năm mươi tuổi, ông bị què chân.
Tám chín năm trở lại đây, cái chân què ấy có đặc dị công năng: Cứ mỗi khi trời
u ám đồ mưa, cái chân lại đau, và mỗi khi đau là y như trời đổ mưa, u ám, chính
xác chẳng khác gì nhũng máy móc tinh vi. Về sau, cũng không còn chính xác lắm nữa.
Bác sĩ bảo rằng nó đã trở thành bệnh tâm lý, nói đau là đau liền, nói không đau
là không đau ngay tắp lự, cứ như người giả vờ ốm vậy. Khí hậu ở vùng sơn địa
thay đổi thất thường, ông lo rằng cứ đau như thế và kéo dài mãi, ông đến chết mất.
Ba mươi năm... mới đấy mà đã ba mươi
năm rồi... ông thích xòe nhũng ngón tay, nhớ lại những năm tháng của mình.
- Lẽ nào mà sau ba mươi năm, bố lại
kéo lê cái tập tễnh ấy về quê?
Con gái, con rề ông nói thế, khiến
ông im không nói gì.
Nhưng khi còn lại một mình trong
nhà, ông lại thêm một lần nữa nhất quyết trở về bình nguyên Quan Trung quê cũ.
Tính nết ông ương bướng, bản thân
ông cũng biết rõ điều đó, nhưng không sao thay đổi đi được. Khi bà lão còn sống,
thường hay ngăn cản ông, mỗi khi họp hành, ông phải báo cáo, bao giờ bà lão
cũng ngồi ngay ở hàng ghế đầu, khi thấy ông hơi hơi nổi nóng lên, nói năng đã bắt
đầu quá lời, bà liền đưa mắt cho ông. Ông xem chiếu bóng, phim Lâm Tắc Từ, ông
rất tâm đắc với bức hoành mang hai chữ Nén Giận (Chế Nộ) treo ở trong phòng Lâm
Đại Nhân, và trong một thời gian dài, ông đã từng gọi bà lão là bà Nén Giận”.
Đến nay bà lão đã mất, tính nết ông
không còn bị gò bó, kiếm soát nữa, cái quyết tâm trở ở lại bình nguyên quê cũ
không còn ai có thể lay chuyển được nữa, ông bắt tay vào việc thu xếp hành
trang.
Đồ đạc trong nhà ông ít ỏi đến thảm
hạỉ. Ba mươi năm trước ông còn là một chàng trai tơ, từ Quan Trung lên vùng sơn
địa Thương Châu, làm anh liên lạc trong ủy Ban huyện. Ngày ấy công văn giấy tờ
không nhiều, lại chẳng phải dậy sớm hàng ngày để lấy nước sẵn cho ông Huyện Trưởng
rứa ráy, hoặc phải quét dọn gì, mà chỉ có mỗi một việc là Huyện Trưởng sai chạy
giấy xuống các xã bằng ngựa, ông chỉ việc lo ăn lo uống cho chú ngựa là xong.
Về sau ông làm nhân viên bán hàng, rối
cán sự công xã, thậm chí còn gánh vác cả công việc của hội Phụ Nữ khi ấy cán bộ
nữ còn rất ít - ông đã làm chủ nhiệm hội Phụ Nữ. Cũng trong thòi kỳ ấy ông có
làm quen được với một cô gái người địa phương, và từ đó cô trở thành vợ ông.
Thời ấy người ta không ưa việc mua sắm
đồ đạc gia đình, mãi về sau này mới có cái mốt mua sắm thêm “mấy chục cái chân”
(ý
nói chân bàn chân ghế, chân giường, ND) nhưng thói quen của ông không thay đổi
được nữa, vì thế, trong nhà ông bây giờ, chỉ có hai chiếc hòm con con mối mọt,
và chỉ trong một buổi tối ông đã thu xếp xong mọi thứ hành trang. Ông đi đến mộ
vợ ông lần cuối để từ biệt bà lão, ông ngồi trước mộ bà rất lâu, sau đó ông đến
vái mấy vái trước hai nấm mộ cha mẹ mình đặt phía sau ngôi mộ vợ ông.
Nhưng cô con gái và cậu con rể kiên
quyết không cho ông ra đi, họ đem hai chiếc hòm nát giấu về nhà ở trên huyện.
Trong thời gian còn chưa ra đi được,
ông sống một mình trong một gian phòng tập thể của công xã. Mỗi khi hoàng hôn
buông xuống, ông thường thích một mình ra ngồi trên một mỏm núi trước trụ sở
công xã. Mỏm núi rất dốc, bên dưới là một dòng sông. Dòng sông bao quanh một khối
đá tròn to như thế, nên con sóng, trước sau chỉ đập vào một nơi, không đồi thay
sắc thái, lúc nào cũng chỉ là một mầu trắng, không giống tuyết, cũng không giống
hoa, mà nó giống như những giải giấy trắng nhỏ, dài, vo thành từng mớ, từng mớ.
Không khí vùng sơn địa thật trong lành, ngồi ngắm nhìn sự đổi thay của bóng
mây, đáng núi; lắng nghe tiếng âm nhạc của sóng sông gặm vào vách núi, vậy mà
lòng ông rối loạn, mà chẳng tìm cho ra được đầu nào, mối nào, những lúc như thế
ông thường lần trong túi, lấy ra hai hạt hạch đào, vo vo trong tay khiến chúng
vang lên những tiếng lách cách, lách cách nho nhỏ.
Hai hột hạch đào không to, đầy những
nếp nhăn dọc ngang xoắn xuýt, và ông quý mến nó, coi nó như một thứ bảo bối của
mình, đi đâu ông cũng mang theo nó trong người, và khi không có việc gì, ông lại
lấy nó ra vò vò trong tay, làm cho nó vang lên những tiếng lách cách, lách
cách. Mồ hôi trong tay làm cho hai hột hạch đào bóng lộn lên, và đổi thành màu
nâu sẫm, đến độ trông chúng chăng còn có vẻ là hột hạch đào nữa.
Buổi chiều có một cô gái mới chừng
hơn mười ba tuổi, đến bên móm núi. Cô đi chăn dê, cô đã lấy một cái thùng thật
dài buộc con dê vào thân cây, để cô có thể chơi bời một mình ở đó. Và cô bé
nhìn ông chằm chằm.
Ông hỏi:
- Cháu là con nhà ai thế?
Cháu là con nhà ai thế? ông cảm thấy
cô bé thật đáng yêu.
Cô bé đáp:
- Cháu là con của mẹ cháu!
Ông cũng nói:
- Bác cũng là con của mẹ bác.
Từ đó một già một trẻ thành bạn với
nhau, và trong rất nhiều ngày họ trò chuyện với nhau ở đây. Ông cảm thấy trong
người ông nguôi ngoai đi được thật nhiều. Có một lần cô bé cầm lấy mấy hột hạch
dào của ông, hỏi ông đấy là cái gì? ông trả lời cô bé. Cô bé bèn cất tiếng lanh
lảnh kêu lên:
- Bé tý tẹo thế này mà đã già rồi!
- Già ư?
- Mặt nhăn nheo hết cả, giống như mặt
bác ấy.
Ông bật cười, gần như bị sặc.
Cô bé lại hỏi hột hạch đào này có ăn
được không? Ông bảo, có thể ăn được. Cô bé lại hỏi, nó làm bằng gì. Ông bảo cô
bé biết, nó mọc ở trên cây, có thể lấy đem trồng, rồi nó sẽ mọc thành một cây
thật lớn, thật to, và một cây có thể mọc ra hàng ngàn hàng vạn cái quả.
Kết quả là hôm sau, cô bé đã lấy trộm
của ông những hột hạch đào ấy đi, cô đem chôn nó xuống một ụ đất, lấy đá vây
quanh thành một cái ổ. Mấy hôm sau cô lại đào hột hạch đào lên, chạy đi hỏi La
Lục Tử:
- Làm sao nó không mọc thành cây?
- Con đã đem nó đi trồng đấy ư?
Nó chết rồi!
Ông trầm lặng ngắm nhìn cô bé, nghĩ
ngợi trong lòng: Đúng là nó chết rồi. Nhưng ông chẳng nói điều đó ra, và sau
khi cầm lại hai hột hạch đào, ông ốm luôn một trận.
Sau khi khỏi ốm, ông đi thẳng lên
huyện thêm một lần nữa, và đòi các con phải để cho mình trở về bình nguyên Nam
Trung quê cũ. Cái tính ương bướng của ông lại nổ bùng ra, lời lẽ vô cùng cứng
nhắc. Đầu tiên cậu con rể còn khuyên giải ông cuối cùng cũng chẳng giữ được nữa,
anh bảo ông không nên về hưu non, rồi lại bảo ý chí cách mạng của ông bị sút giảm,
đã làm việc, công tác ở vùng sơn địa đến ba chục năm, mà vẫn chẳng có chút tình
cảm nào với vùng sơn địa cả. Lời lẽ ấy đâm thẳng vào trái tim ông, ông dằn mạnh
cốc nước, giận dữ mắng con:
- Mày lên lớp tao đấy phải không? Ba
mươi năm trước, khi mày còn là thằng oắt con, ngồi trên đùi bố, tao đã đến nơi
này rồi đấy! Khi ấy, đây còn là rừng thiêng nước độc, làm sao tao không bỏ mà về?
Tao đã quyết sống chết với mảnh đất này, dem bán hết cả nhà cửa nơi quê cũ đi,
không giữ lại một hòn ngói, tao đã cắt đứt con đường trở lại mày biết không?
Tao đã đem cả hài cốt cha mẹ tao chuyển đến noi này, vậy mà tao không yêu mến
vùng sơn địa này sao? Cái chân tao... cái chân tao...
Ông không nói thêm được nữa, và ông
lại lấy tay chà sát hai hột hạch đào vang lên những tiếng lách cách lách cách
nho nhỏ.
Chàng rể về nói với vợ, cô con gái
La Lục Tử nói cho chồng biết:
- Chức vụ cao nhất trong cả một đời
bố là bí thư khu ủy (l) đó là khu Thanh Du miền cực tây của huyện.
Năm đó ông hô hào mọi người trồng hạch
đào, và ông đã liên hệ dem được một số lớn cây giống từ nơi khác về, rồi lại
đích thân đi mời cán bộ kỹ thuật về hướng dẫn nhân dân cách thức trồng trọt
chăm bón, quyết tâm biến cái vùng đất núi hoang vu ấy thành vườn hạch đào. Ông
ngồi đứng không yên, lặn lội hết nơi này đến nơi khác, giải thích tuyên truyền,
bàn bạc quy định để thực hiện việc trồng cây. Ông động viên không nên trồng cao
lương ở nhũng mảnh đất bạc màu trên đỉnh núi nữa... Kết quả là, trong một đêm,
khi đi ngang qua con đường đá ở bờ ông,
mắt
ông bị hoa lên, rồi bước hụt chân...
Từ đấy ông phải mang trên mình một
chiếc chân què. Nhưng ở cái vùng sơn địa ấy, từ xưa đến nay chưa bao giờ có cây
hạch đào, chưa bao giờ được trông thấy, nhìn thấy và cũng chưa bao giờ trồng
nó, nên nông dân không chịu tin ông, tập quán xưa nay của họ là gieo hạt trên
những mảnh đất hoang, mỗi năm thu hoạch một vụ với cung cách cứ phải đi mười bước
chân mới thấy được một cây cao lương.
- Con người là phải sống bằng ngũ cốc.
Cái cây này có ăn được không? Có uống được không?
- Nó có thể kết thành trái hạch đào.
Đó là loại cây rung ra tiền đấy!
- Năm nay có ra được tiền không?
- Đồ mắt chuột chỉ nhìn được mấy tấc
đường!
Ông càng cương quyết, bướng bỉnh
hơn, yêu cầu mỗi công xã đều phải có vườn hạch đào, có nơi không làm ông bèn gọi
cán bộ tới, lớn tiếng toát cho những trận nên thân.
Từng khoang từng khoảnh đất hoang
trên đỉnh núi, đều được trồng hết hạch đào, một năm chẳng có thu hoạch gì, hai
năm chưa nhìn thấy lợi ích của nó ở đâu...
Những lá đơn kiện cáo tôi tấp bay
lên huyện ủy, địa ủy, tỉnh ủy:
Cây hạch đào cái quái cái quỷ gì? Có
cây hạch người, cây hao tài tốn của thì có!
Thế là La Lục Tử - ông bí thư khu ủy
- bị đồ cái rụp, trong tiếng than vãn, phàn nàn, trách móc của quần chúng.
Ông được điều tới công xã Núi Trắng
(Bạch Sơn) heo hút giư chức vụ phó bí thư công xã.
Ông thất bại, ông rời khỏi khuôn
viên khu ủy, ông chẳng có tý gì, vẫn chỉ là một bó chăn chiếu, một chiếc bát sắt
trắng men, một chiếc đèn pin, và hai cái hột hạch đào. Ông vừa đi vừa khóc.
Chín năm nay, ông không một lần trở
lại Khu Thanh Du ấy nữa.
Chàng rể lúc ấy mới hiểu được tâm
can của bố vợ, thấy ân hận vì đã không thấu hiểu hết được tấm lòng ông, anh lần
xuống công xã xin lỗi ông.
Nhưng ngay từ sáng sớm ngày hôm đó,
La Lục Tử đã lặng lẽ ra đi.
Khi bước chân lên xe, không có bất cứ
mọt người nào vẫy chào ông, duy chỉ có một người bạn cô bé chăn dê đến tiễn biệt
ông. Ông cúi hôn cô bé thật nồng nhiệt, rồi lên xe. Tấm kính mỏng manh trên cửa
sổ xe đã ngăn cách ông với cô bé con, đã ngăn cách ông với những dặng núi xanh
xanh, và với con sông đầy nước trắng xóa.
Một lớp kính mỏng manh, đã khiến cho
vùng sơn địa, ông đã làm việc ba chục năm, trở thành một bức tranh, trở thành
làm việc ba chục năm, trở thành một bức tranh, trở thành một ảo ảnh mỹ lệ.
Xe ô tô chạy, hướng ra phía bên
ngoài núi. Xe chạy qua khu Thanh Du. Ông nhắm tịt mắt lại, nhưng rồi cũng không
thể không mở mắt ra để thoáng nhìn. Cái vùng đất ấy đã khiến ông ngã ngứa người,
đã khiến trái tim nồng cháy của ông lụi tắt.
Ông đã từng nguyền rủa mảnh đất ấy,
và cũng đã từng định rằng ông sẽ bắt đầu bò dậy từ chính mảnh đất mà ông đã ngã
xuống để làm lại từ đầu, nhưng ông đã già mất rồi, tâm có thừa mà lực lại không
đủ, bây giờ, bỗng nhiên ông lại đi ngang qua mảnh đất này, và còn đang mang
trên mình một vết nhục mà đi.
Thôi, thôi, hãy cứ để cho họ muôn đời
nguyền rủa ta thôi!
Từng
ngọn núi lùi dần, lùi dần về phía sau xe, nhưng trên đỉnh núi càng ngày hiện ra
nhiều những bóng đáng màu xanh, đó là những vạt rừng, nhưng nó là thứ cây gì mới
được chú?
Ông lại lôi ra hai hột hạch đào, vò
vò nó trong tay cho vang lên những tiếng lách cách lách cách nho nhỏ.
Một người đàn bà ngồi bên cạnh hỏi
ông:
- Ông có phải là người ở vùng Thanh
Du này không?
Ông chẳng biết trả lời sao, và cảm
thấy chiếc chân què của mình đau nhức nhối.
- Hạch đào của các ông bao nhiêu tiền
một cân?
- Hạch đào? Của chúng tôi... ?
Ôi! Vậy thì ra, ở trên đỉnh núi kia,
những cây hạch đào đã mọc thành rừng! Đã chín năm rồi, chắc chắn hạch đào đã phải
cho quả. Điều đó lẽ nào lại là một sự thực được sao? Cái cây hạch đào cho quả,
quả nó ra làm sao nhỉ?
Ông đề nghị bác tài xế cho dùng xe,
bảo ràng ông bị đau bụng đi ngoài. Bước xuống xe, vẫn sông ấy núi ấy, và chỉ
trong nháy mắt, những ảo tưởng bị ngăn cách bởi tấm kính mỏng manh của chiếc ô
tô đã trở thành hiện thực. Ông lớn tiếng nói với bác tài:
- Cứ cho xe chạy đi, tôi xuống xe ở
đây thôi!
Ông đi về phía dốc núi, ông bất chợt
thất vọng... Nếu như đấy không phải là rừng hạch đào? Rồi nhớ lại gặp mặt một
người quen nào đó thì sao? Làm sao có thể chịu dựng nổi những ánh mắt đầy giận
dữ kia? ông cứ bước từng bước tậm toại, vòng qua một hẻm núi, và thật bất ngờ,
trước mặt ông lại hiện ra một con đường cái quan, vòng vèo uốn lượn, quanh co,
rồi vượt lên một đỉnh núi, và ông chợt a lên một tiếng: Phía trước mặt xa xa,
quả nhiên là một vườn hạch đào cực lớn!
Những cây hạch đào rậm rạp, lá đã đổ
vàng, nhưng còn chưa rụng hết, và núc nỉu những quả hạch đào. Ông không nhìn thấy
cuối vườn đằng kia, ông chỉ nhìn thấy trong nơi sâu nhất một ngồi lều cỏ mà hai
mái của nó úp sụp xuống đất thành một hình tam giác. Sương sớm tán mạn, giăng mắc
đó đây, và biến thành màu lam khi tụ lại trên đỉnh những ngọn cây của cả rừng
cây.
Ông nghe thấy từ phía đó, tiếng những
cày sào tre dập quá rào rào và tiếng quả rụng bồm bộp, và có cả tiếng một người
nói to:
- Mảnh vườn này chia cho nhà anh rồi
hử?
- Chứ sao!
Đây là Vương chuyên viên chuyên
ngành, thân chinh đến thăm vườn hạch đào của anh đấy.
- Ô! Thật vinh dự, rất hoan nghênh,
xin mời các vị nếm thủ hạch đào đi.
- Vườn này, năm nay mới cho quả
không?
- Dạ vâng, thưa đồng chí chuyên
viên, năm nay nó mới cho quả!
- Một cây có thể thu hoạch được bao
nhiêu?
- Dự tính khoảnh độ năm, sáu trăm
cân (l)
- Ối chao, thật đúng là cây rung ra
tiền! Vưòn này được trồng từ năm nào vậy?
- Tám, chín năm rồi!
- Tám chín năm mới thấy được hiệu quả,
điều này có lẽ cần phải thông báo cho toàn địa khu biết, ở đây nó đã được trồng
ra như thế nào?
- Dạ thưa, câu chuyện dài dòng lắm,
đây là do cái ông bí thư La Què năm đó bắt chúng tôi trồng, khi trồng xong hạch
đào thì ông bì đổ, nghe nói là bị phê bình, giáng chức, và bị điều đến một nơi
xa tít mù tắp nào đấy rồi.
- Ôi chao!
- Khổ nỗi, chuyện lại do chính chúng
tôi kiện cáo ông, vì lúc đó mọi người cứ
tưởng
rằng thế là hao tài tốn của.
Bây giờ chúng tôi được ăn quả, còn
ông ấy thì chẳng biết lưu lạc tận phương trời nào, và cũng chẳng biết còn sống
hay đã chết mất rồi?
La Lục Tứ đứng ở đó, trong lòng như
muốn gào lên: Tôi đang ở đây! Tôi đang ở đây! Nhưng ông lại câm lặng, đứng chôn
chân ở đó, và nước mắt chảy dài.
Nghe tiếng nói của người chủ vườn,
ông không nhận ra được đó là tiếng nói của ai, cũng có thể ông chưa hề quen biết
người này. Ông không nhận ra được người chủ vườn, ấy mà người chủ vườn lại gọi
ông là La Què!
Tiếng người chủ vườn từ phía đó lại
vang lên:
- Nhận biết được một con người thật
khó.
Ông ngồi phệt xuống đó, người ông
nhũn nhão chừng như không còn được một chút sức lực nào nữa. Chín năm nay, tại
sao ông không nghe được một lời nào như thế?
Tại sao ông lại không cố mò mẫn tới
đây lấy một lần? Tròn chặn chín năm nay ông phải vác trên vai cái tội danh muôn
người nguyền rủa, vạn người chứi bới, nếu như được nghe lấy một lời như thế, liệu
ông có bị suy sụp già đi một cách nhanh chóng như thế nào không?
Liệu ông có phải về hưu non để trở lại
bình nguyên Quan Trung quê cũ. Lời nói đó ông đã phải chờ đợi trọn vẹn chín năm
dài. ông hiểu ra rằng, một chân lý, một đạo lý, một sự kiện, một con người, muốn
có được sự công nhận chân chính, cần phải qua kháo nghiệm, song sự khảo nghiệm
lại phải cần tới thời gian, có thể là một tháng, một năm, hoặc tám, chín năm,
và cũng có thể là cả một đời người dầng dặc! Cuối cùng thì mảnh đất này đã được
trải qua khảo nghiệm.
Ta cũng đã đựợc khảo nghiệm. Ông ân
hận một cách thực lòng, ân hận vì tính nết của mình cùng với tác phong mệnh lệnh
thời đó.
Đồng thời, ông cũng cảm thấy xấu hồ,
ngượng ngùng vì chín năm qua ông đã nguyền rủa, oán trách mánh đất này.
Những giọt nước mắt âm thầm của ông
rơi lã chã.
- Sao ông khóc?
La Lục Tứ ngẩng đầu lên, đứng trước
mặt ông là một cậu con trai, mồ hôi mồ kê nhễ nhoại, gánh một gánh hạch đào, vừa
mới từ phía sau vườn đi tới.
Cậu bé lấy ngón tay quệt quệt lên má
mình chế diễu ông.
Ông hỏi:
- Hạch đào này có bán không?
- Tất nhiên là bán chứ ạ!.
Ông đứng lên, rút ra năm đồng bạc,
mua một túi xách.
Cậu bé nhìn ông, đột nhiên nói:
- Ông lấy đi, cháu chẳng lấy tiền của
ông làm gì.
- Tại sao vậy?
- Ông là người què mà.
- Què quặt? Thế là chiếu cố người
tàn tật phải không?
- Không, người lớn ở đây nói rằng: Tất
cả hạch đào ở đây là do ông La Què bảo trồng, ông được lạm hưởng phần quang
vinh của ông ấy.
- Thế cũng được. Tôi lạm hưởng phần
quang vinh của ông ấy.
Ông bốc đày một túi xách tay, rồi
ông lấy đá đập những hột hạch đào, ngồi ăn.
Hột hạch đào nhăn nheo bốn mặt dọc
ngang, ông đập vỡ cái nhân ở bên trong trông giống như một bộ não của con người.
ở thì ra, khi nó già, nó chín, ăn được, không phải chỉ có những nếp nhăn ngang
dọc, mà còn có một bộ óc nữa!
- Tên cậu là gì?
- Có chuyện gì thế ạ?
Bác gửi cậu lời hỏi thăm tới tất cả
dân làng.
- Hỏi thăm?
Ông đưa cho cậu bé mấy hột hạch đào
mà ông vẫn coi như bảo bối của mình:
- Nói rằng có một người què gửi lời
hỏi thăm.
Cậu bé đã nói lại chuyện đó với dân
làng, những người lớn hỏi hình đáng người què ấy, rồi tất cả cùng reo lên:
- Đúng là bí thư La Què rồi còn gì nữa.
Tất cả đổ lên núi, đi tìm La Lục Tử,
nhưng không tìm thấy, và rồi họ bắt đầu lôi
chuyện
ngày xưa ra nói lại, đoán mò đoán mẫm xem trong chín năm qua ông đã ra sao, và
già nua đến mức độ nào rồi? Tất cả đều nghĩ tới ông.
Duy chỉ có mỗi một cậu bé là chính mắt
đá nhìn thấy La Lục Tử, và hình đáng La Lục Tử chỉ có mỗi một mình cậu là được
trông thấy rõ ràng nhất.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
namkts57@gmail.com