Truyện ngắn dịch
       
Thơ
       
Thơ dịch Truyện ngắn khuyết danh Truyện ngắn Truyện dịch cực ngắn
       
16/3/12

Xứ người mù - Herbert George Wells

Xứ người mù
Herbert George Wells
Đoàn Văn Khanh dịch

            Tại vùng sơn dã hoang vu nhất của rặng trường sơn Andes xứ Ecuador, nằm cách Chimborazo khoảng hơn ba trăm dặm và cách vùng tuyết phủ Cotopaxi một trăm dặm, có một cái thung lũng huyền bí, cách biệt  hẳn với thế-giới bên ngoài, đó là xứ sở của người mù. Vào những ngày xa xưa, cái thung lũng tận cùng chốn hoang sơn này cũng đã từng thông ra với thế giới bên ngoài, và người ta có thể đến đấy sau khi đã vượt qua những hẻm núi vô cùng hiểm trở và một sơn đạo phủ đầy băng tuyết để đặt chân lên những cánh đồng cỏ quanh năm xanh tốt. Và rồi cũng đã có người, hình như là một gia đình người Peru lai, vì muốn lánh nạn độc tài gian tham và tàn ác của một nhà cai trị Tây ban nha, nên đã bồng bế nhau đến đây. Sau đó, ngọn núi Mindobamba bỗng nhiên phun lửa dữ dội. Trong khi ở Quito đêm tối mịt mù kéo dài mười bảy ngày liền, và nước sông ở Yaguachi sôi lên, cá chết nổi lềnh bềnh đến tận Guayaquil, thì dọc theo sườn núi ven biển Thái bình dương đâu đâu cũng có nạn lở đất, băng tuyết rã tan đột ngột, và nước lụt dâng lên thình lình, rồi nguyên cả một cạnh sườn của đỉnh núi Arauca cổ bị sụt lở hẳn một bên, lăn xuống ầm ầm như sấm động, và xứ của người mù bị tách rời thành một cõi riêng, vắng hẳn vết chân thám hiểm của loài người.
            Nhưng một trong những người định cư sớm nhất lại may mắn tình cờ đã đến hẻm núi phía bên này trước khi trận động đất kinh hoàng xảy ra, nên sau đó ông ta đành phải quên vợ con, bè bạn, cũng như  tài sản đã  bỏ lại trên kia để bắt đầu làm lại cuộc đời ở cái thế giới bên dưới này. Ông đã làm lại cuộc đời, nhưng không mấy may mắn, rồi vướng phải bệnh mù và chết trong hầm mỏ vì sự ngược đãi, nhưng câu chuyện ông kể trở thành một huyền thoại vẫn lưu truyền suốt giải núi trùng điệp Cordilleras của rặng Andes cho tới nay.
            Ông kể lại lý do tại sao ông phải lần mò trở về từ vùng thâm sơn đó, nơi mà lần đầu tiên ông đã đến bằng đà mã lúc hãy còn là một đứa bé bị buộc chặt vào với một kiện lớn đựng đầy các đồ vật dụng.  Ông ta nói cái thung lũng ấy là một vùng đất lành, có đầy đủ mọi thứ mà con người hằng mơ ước: nước ngọt, đồng cỏ, khí hậu lại ôn hoà, những sườn đồi đất đỏ mầu mỡ, nhan nhản những bụi cây cho quả ngon ngọt, và trên một sườn núi khác là những cánh rừng thông bạt ngàn ngăn chặn nạn tuyết lở bên trên. Xa tắp trên cao, ba mặt là những vách đá đồ sộ màu xanh xám với đỉnh đóng đầy băng. Còn những khe suối đóng băng thì không chảy về phía họ mà lại chảy về hướng những sườn đồi xa hơn, và chỉ thỉnh thoảng mới có những tảng băng khổng lồ lăn xuống mé thung lũng. Tại thung lũng này không bao giờ có mưa hay tuyết rơi, nhưng nhờ có nhiều con suối làm cho đồng cỏ vẫn xanh tươi và người ta có thể dẫn nước tưới chan hòa khắp nơi trong thung lũng. Dĩ nhiên là những người đến đây định cư đều ra sức làm ăn. Thú vật do họ chăn nuôi cũng rất béo tốt và sinh sôi nẩy nở, chỉ hiềm có một điều khiến cho hạnh phúc của họ không trọn vẹn. Mà đúng thế, chỉ mỗi một điều này thôi cũng đủ làm cho hạnh phúc của họ bị sứt mẻ. Một chứng bệnh kỳ lạ đột nhiên xảy đến cho họ khiến cho không những tất cả những đứa bé sinh ra ở đây, mà ngay cả nhiều đứa trẻ lớn hơn đều bị mù. Chính vì để tìm kiếm một thứ bùa phép hay một loại thuốc nào đó khả dĩ chống lại cơn hoành hành của chứng bệnh mù này mà ông ta đã chẳng quản ngại gian lao nguy hiểm, xông pha lặn lội xuống núi tìm về quê cũ. Vào thời ấy, trong những trường hợp như thế, người ta không hề nghĩ đến những thứ như vi trùng, sự truyền nhiễm, mà chỉ nghĩ đến tội lỗi, và ông ta cho là do sự chểnh mảng của mình vì những người di dân đầu tiên không có lấy một giáo sĩ nên đã quên dựng một đền thờ khi mới đặt chân đến cái thung lũng này. Ông muốn xây dựng nơi thung lũng tận cùng này một ngôi đền thờ đẹp đẽ mà không quá tốn kém nhưng linh thiêng. Ông muốn có những linh vật hay những thứ có quyền năng mang lại lòng tôn sùng như những thánh vật, những tấm bùa mầu nhiệm, những quyển thánh kinh. Trong bọc của ông mang theo có một nén bạc bản địa mà ông ta không chịu nói rõ cho biết nguồn gốc, chỉ một mực chối quanh rằng ở chốn thâm sơn cùng cốc đó không hề có bạc, nhưng cái vẻ của ông ta thì lại càng tỏ ra ông ta là một kẻ nói dối còn vụng về. Ông ta chỉ nói là tất cả mọi người ở đó đã gom góp tiền bạc và các vật trang sức quý giá vì họ cho là những vật qúy báu ấy không còn cần thiết cho họ ở một nơi chốn như vậy, mà họ chỉ mong đổi lấy phép mầu về trị bệnh. Tôi hình dung ra một chàng trai trẻ miền núi, mắt mũi lờ đờ, da dẻ sạm nắng, người gầy gò, lòng bồn chồn lo lắng, tay siết chặt cái mũ rộng vành, một chàng trai hoàn toàn xa lạ với nề nếp sinh hoạt của cái thế giới bên dưới này, kể lại chuyện trên cho một vài giáo sĩ mắt sáng chăm chú nghe trước khi có trận động đất. Tôi còn hình dung ra được chàng trai đó mang những thứ thuốc men không thể thiếu và được tin tưởng có thể cứu họ qua cơn hoạn nạn, đang cố tìm đường về, và vô vàn những nỗi khó khăn chán ngán mà anh ta phải đối đầu trước cảnh ngổn ngang hoang tàn của cái nơi trước kia vốn là hẻm núi. Tuy nhiên những tai biến gì khác nữa đã xẩy ra cho chàng trai sau đó nữa thì tôi không nhớ rõ, ngoại trừ cái chết thảm khốc của chàng ta sau đó nhiều năm. Thật đáng thương cho kẻ lạc loài từ chốn xa xôi tận cùng đến! Dòng suối vốn trước kia từng là hẻm núi qua lại, nay đang đổ ào ào xuống từ cửa một thạch động, và câu chuyện truyền kỳ, được kể lại một cách vụng về đã biến thành huyền thoại của một giống người mù sống ở một chốn xa xôi nào đó trên cao mà ngày nay người ta vẫn còn nghe thuật lại.
            Và thế là chứng bệnh mù cứ tiếp tục hoành hành số cư dân ít oi sống tại cái thung lũng bị tách rời và quên lãng ấy. Những người già trở thành sờ soạng, những đứa trẻ chỉ nhìn thấy lờ mờ, còn những đứa bé sinh ra tại đây thì mù hẳn. Tuy nhiên đời sống trong khu vực lòng chảo bốn bề tuyết vây, khép kín với thế giới bên ngoài này lại rất dễ chịu: cỏ cây không gai góc, không sâu trùng độc hại, cả thú dữ cũng không có nên bầy súc vật hiền lành thuộc giòng dõi được sinh ra từ những con đà mã đã bị họ xô đẩy lôi kéo đi dọc lòng những con sông hẹp chạy qua những hẻm núi để theo họ đến đây vẫn sống an toàn. Vì thị lực của họ chỉ suy yếu từ từ nên họ hầu như không đau khổ mấy về sự mất mát này. Họ hướng dẫn những đứa trẻ mù đi đây đi đó khắp nơi trong thung lũng cho đến khi chúng thuộc lòng đường đi lối lại một cách kỳ diệu, thành thử đến lúc họ trở thành mù hẳn thì dòng giống họ vẫn tồn tại. Cũng may là họ còn có đủ thời gian tự thích nghi với cách thức của kẻ mù để kiểm soát lửa củi mà họ đã gìn giữ trong những cái lò bằng đá.
            Về phần những người mù này thì thoạt tiên, họ chỉ là một nhóm người mù chữ hơi có chút tiếp xúc với nền văn minh Tây ban nha, nhưng vẫn phảng phất ảnh hưởng còn lưu lại của nền nghệ thuật và triết học đã thất truyền của xứ Peru thời cổ. Thế hệ này tiếp nối thế hệ khác, họ quên mất nhiều điều mà cũng đã phát minh ra nhiều thứ. Những lưu truyền về cái thế giới rộng lớn bên ngoài, cội nguồn của họ, trở nên mơ hồ, phai nhạt và mang vẻ hoang đường. Nói chung thì ngoại trừ đôi mắt không nhìn thấy gì, còn ra thì họ đều là những con người khỏe mạnh, năng động. Rồi do may mắn tình cờ mà trong số họ lại nảy sinh ra được một người có đầu óc thông minh xuất sắc, có thể hô hào lên tiếng quy tụ được mọi người và sau đó lại có thêm một người thứ hai nữa. Hai người này sau khi chết vẫn còn để lại nhiều ảnh hưởng, và cái cộng đồng bé nhỏ ấy trở nên đông đúc hơn và cũng hiểu biết hơn để cùng nhau giải quyết những vấn đề xã hội hay kinh tế do hoàn cảnh tạo ra. Thế hệ này tiếp nối thế hệ khác, đời này qua đời khác, dòng đời cứ thế mà trôi. Rồi chẳng mấy chốc đứa bé thuộc thế hệ thứ mười lăm được sinh ra kể từ đời ông tổ đã một lần mang nén bạc đi ra khỏi thung lũng để tìm sự cứu độ của Thượng đế và không bao giờ trở lại. Vào khoảng thời gian đó bất ngờ lại có một người từ thế giới bên ngoài lọt vào được cái thung lũng tận cùng đã tuyệt tích ấy. Và sau đây là câu chuyện của người này.
            Hắn vốn là một người dân miền núi ở gần Quito, một người đã từng đi biển, đã nhìn thấy thế giới đó đây, một người ham đọc sách theo kiểu riêng của mình, một người có đầu óc sáng suốt và tính tình năng động nên được một toán người Anh đến Ecuador để leo núi thuê thay thế cho một trong ba hướng đạo viên người Thụy sĩ bị ốm. Hắn đã leo hết núi này đến núi nọ rồi mới đến lần leo thử ngọn núi Paracostopelt trong rặng núi Andes, và lần ấy thì hắn biệt tích luôn. Tai nạn này được viết kể lại cả chục lần, nhưng chỉ có chuyện của Pointer thuật là hay nhất. Ông ta kể lại những khó khăn mà toán thám hiểm của ông ta đã phải đương đầu khi leo lên con dốc hầu như dựng đứng để đến cái vực thẳm cuối cùng và lớn nhất, và những sự chật vật họ đã phải trải qua để dựng lều trú ẩn qua đêm trên một khoảng đá bằng giữa một vùng tuyết giá, và với một giọng gây hồi hộp cho người nghe ông ta cho biết là đến đây thì đoàn thám hiểm chợt phát giác sự mất tích của Nunez ra sao. Họ réo gọi hắn nhưng không nghe trả lời, họ lại hô hoán thêm và thổi còi inh ỏi, và thế là suốt đêm không còn ai chợp mắt được nữa.
            Khi trời vừa hửng sáng thì họ nhìn thấy dấu vết của Numez ngã lăn xuống vực. Hình như hắn đã không kịp kêu lên một tiếng nào. Hắn bị trượt té về mé đông, rơi về một khu hoang vu của rặng núi. Rớt xuống tới bên dưới, hắn gặp nhằm một cái dốc đứng tuyết đóng, và tiếp tục lăn mãi xuống nữa cùng với đám tuyết lở. Vết lăn chạy thẳng đến bờ một cái vực thẳm khủng khiếp, sau đó thì mọi dấu vết đều bị phủ lấp. Xa lắc xa lơ bên dưới, và lờ mờ trong khoảng cách xa xăm, họ có thể thấy những thân cây vươn lên từ một cái thung lũng nhỏ hẹp khép kín, đó chính là cái xứ sở đã tuyệt tích của những người mù. Nhưng lúc bấy giờ chưa ai rõ đấy là xứ người mù và họ cũng không phân biệt được nó với những khoảng thung lũng nhỏ hẹp khác miền núi. Nản lòng trước tai nạn bất ngờ này, cả đoàn bỏ cuộc ngay từ trưa hôm ấy. Và rồi trước khi có dịp leo thử một lần nữa thì Pointer đã bị gọi nhập ngũ. Và cho tới nay, đỉnh Paracostopelt vẫn cao ngạo nghễ chưa có ai đặt chân tới được, còn túp lều của Pointer cũng trở nên xiêu vẹo giữa vùng tuyết phủ không kẻ vãng lai.
            Nhưng kẻ rơi xuống vực sâu đó vẫn còn sống sót.
            Bị cuốn lăn theo cùng với đám tuyết mù đến cuối cái dốc đầu tiên sâu khoảng một ngàn bộ, hắn rơi lọt vào một cái dốc tuyết bám khác còn dựng ngược hơn cái trên. Khi bị cuốn lăn theo cái dốc này thì hầu như hắn choáng váng đến độ không còn cảm giác nhưng may không bị gẫy một cái xương nào, và sau đó thì hắn rơi đúng vào những triền dốc thoai thoải hơn và cuối cùng là lăn tròn rồi nằm im, vùi trong đống tuyết xốp trắng đã bị cuốn lăn theo hắn khi hắn rơi xuống và đã cứu sống hắn. Nunez hồi tỉnh dậy, tưởng như mình đang ốm nằm trên giường, nhưng với trí óc của người dân miền núi khiến cho hắn nhận ngay ra tình thế, liền tìm cách cựa quậy, và sau vài lần lóp ngóp đã chui ra khỏi đống tuyết cho đến khi hắn nhìn thấy những ngôi sao nhấp nháy trên trời. Hắn nằm soài ra một lúc, tự hỏi mình đang ở đâu và chuyện gì đã xẩy ra cho mình. Hắn sờ nắn tứ chi, và khám phá ra cái áo khoác ngoài đã đứt khuy gần hết và lật ngược lên trên đầu. Con dao găm trong túi rơi lúc nào không biết và ngay cả cái mũ đã được buộc chặt dưới cằm cũng mất nốt. Hắn nhớ mang máng lúc ấy hắn đang đi lượm đá rời để dựng vách cho căn lều của mình. Cả cái rìu xẻ băng cũng mất tiêu.
            Hắn chắc chắn là mình đã bị rơi xuống vực, và khi ngửng đầu nhìn lại dưới ánh trăng nhợt nhạt, hắn mới thấy sự rơi ngã vừa rồi của mình càng khủng khiếp. Hắn nằm yên một lúc, nhìn trừng trừng lên cái vách đá sừng sững bên trên, càng lúc càng như thấy nó vươn cao thêm ra khỏi bóng tối đang lùi dần. Vẻ đẹp huyền ảo, thần bí của núi rừng làm Nunez lặng người một lúc rồi bỗng nhiên hắn bật lên cười nức nở...
            Một lúc lâu sau, hắn nhận ra mình đang nằm gần mép thấp của đống tuyết. Bên dưới bây giờ  trong ánh trăng soi là một cái dốc khác có vẻ dễ đi, hắn thấy những mảng sẫm rời rạc của cỏ mọc chen với đá. Hắn gượng đứng dậy, các khớp xương ê ẩm, lần mò đi một cách khó khăn từ đống tuyết xốp bao quanh mình cho đến khi xuống tới mảng cỏ rồi lăn kềnh ra thì đúng hơn là nằm xuống bên cạnh một tảng đá lớn, lấy cái bình nước trong túi ra tu một hơi dài rồi thiếp đi...
            Tiếng chim hót từ những rặng cây xa tít bên dưới đánh thức hắn dậy.
            Hắn ngồi lên, và thấy mình đã nằm trên một bãi cỏ nhỏ ở chân một cái vực rộng lớn chỉ hơi thoai thoải trong một khe rãnh mà hắn đã lăn xuống cùng với tuyết. Trước mặt hắn là một vách tường đá khác vươn thẳng lên trời cao. Cái khe núi chạy giữa hai vách đá từ đông sang tây đang chan hòa ánh nắng ban mai, rọi đến tận phía tây cái khối núi chận đứng cái dốc xuống. Phía dưới hắn dường như có một vách đá cũng dốc ngược không kém, nhưng phía sau cái rãnh tuyết là một cái khe, băng đang tan nhỏ từng giọt, có thể đánh liều men theo đó mà đi được. Hắn liền thử và nhận thấy dễ đi hơn hắn tưởng. Cuối cùng hắn đến được một bãi cỏ hoang vắng khác và sau khi leo qua những tảng đá không mấy khó khăn, hắn tới một cái sườn núi dốc có cây cối. Hắn sửa lại bộ dạng, ngửng nhìn lên cái hẻm núi vì  thấy nó ăn thông với những đồng cỏ xanh bên trên và nhận ra cả một cụm nhà xây bằng đá với hình thù kỳ dị. Trong khi lần bước, có lúc hắn tưởng như mình đang leo lên một bức tường, và một lúc sau, khi ánh nắng mặt trời đang lên ngừng rọi theo vách núi, tiếng chim hót cũng tắt dần và khí trời quanh hắn trở nên lạnh giá và tối dần. Nhưng cái thung lũng xa xa với những căn nhà trông như lại sáng lên. Bây giờ thì hắn đã đến một bờ dốc và giữa những tảng đá hắn nhận ra - vì hắn rất có óc quan-sát - có một cây dương xỉ kỳ lạ, như vươn ra từ khe núi nứt nẻ những cánh tay xanh ngắt. Hắn bẻ một ngọn lá hay cọng gì đó, nhấm thử thì thấy ăn được, và nhận ra điều này rất có ích cho hắn.
            Cuối cùng vào khoảng giữa trưa thì hắn thoát ra khỏi hẻm núi để đến một khu đồng bằng có ánh nắng. Mình mẩy tê cóng, mệt mỏi, hắn ngồi dưới bóng râm của một tảng đá, vốc nước từ một con suối cho đầy bình của mình và uống cạn, rồi nghỉ thêm một lúc trước khi tiếp tục đi về phía có nhà cửa.
            Những ngôi nhà này trông rất lạ mắt đối với hắn và khi nhìn khắp cả cái thung lũng này thì càng thấy nó trở nên lạ lùng kỳ quái. Phần lớn diện tích của thung lũng là đồng cỏ xanh rậm rạp điểm xuyết nhiều khóm hoa đẹp được tưới bón vô cùng cẩn thận, chứng tỏ có sự chăm sóc kỹ lưỡng. Trên cao và bao vòng quanh thung lũng là một bức tường có vẻ như một con mương dẫn thủy từ đó nhỏ xuống những giọt nước tưới cho cây cỏ trong cánh đồng, và trên các sườn núi cao hơn ở phía trên kia, bầy đà mã của đám cư dân ở đây đang gặm những mảng cỏ còi cọc. Rải rác đó đây, tựa vào bức tường ranh giới là những cái chòi có vẻ như là chuồng ở hay chỗ chăn nuôi đà mã.
            Các rãnh nước tưới chạy nhập chung lại thành một cái mương chính ở  trung tâm thung lũng và hai bên có xây tường cao tới ngang ngực. Nhờ điểm đó mà cái nơi chốn hẻo lánh này lại mang chút vẻ cấu trúc đô thị rất lạ kỳ và cái vẻ này lại như tăng thêm với một số con đường lát đá đen trắng, chạy đây đó theo đúng hàng lối, và đường nào cũng có một vỉa hè nhỏ kỳ dị bên cạnh. Những ngôi nhà giữa làng trông không giống tí nào những khu quần cư được xây dựng một cách tùy tiện và hỗn độn của những ngôi làng miền núi mà hắn từng thấy. Nhà ở đây dựng san sát hai bên một con đường cái vô cùng sạch sẽ, rải rác đó đây có đục một cái cửa ra vào nhưng không hề có lấy một cái cửa sổ để làm bớt đi cái vẻ phẳng lì của cái mặt tiền mang một màu sắc loang lổ. Chúng xen kẽ một cách không đồng đều tí nào, được trát bằng một thứ vữa chỗ thì xám xịt, chỗ thì màu tai tái, có chỗ lại xen lẫn màu đá đen hoặc màu nâu sẫm, và ngay thoạt đầu, cái quang cảnh màu sắc hỗn độn của lớp vữa tô lên vách này đã mang lại cho anh chàng thám hiểm này cái tiếng “mù”. Hắn nghĩ trong bụng: “Anh chàng nào thực hiện cái công trình này chắc chắn là mù như một cha thầy bói”.
            Hắn lần bước xuống dốc đến chỗ có bức tường vây và con kênh dẫn nước chạy bao quanh thung lũng, gần nơi con kênh phun xuống thung lũng sâu một làn nước mỏng lung linh. Đến đây thì hắn trông thấy một đám người vừa đàn ông vừa đàn bà đang nằm nghỉ trên những đống cỏ, dường như là họ đang ngủ trưa. Xa hơn nữa trên cánh đồng cỏ, và gần phía làng hơn, một lũ trẻ đang nằm ngổn ngang, và rồi gần ngay bên cạnh, ba người đàn ông đang gánh những cái thùng đi trên con đường nhỏ chạy từ bức tường vây quanh hướng về những ngôi nhà. Những người này phục sức quần áo bằng lông đà mã, mang thắt lưng và đi ủng bằng da, đội mũ có vành che gáy và hai tai. Họ nối đuôi nhau đi hàng một, bước chậm rãi, vừa đi vừa ngáp y như người vừa mới thức trắng đêm. Hình như nơi bọn họ có một cái vẻ gì đó rất an nhiên tự tại và khả kính khiến cho Nunez sau một lúc đứng ngần ngừ đã cố hết sức nhoài người lên khỏi tảng đá, cất tiếng gọi to, âm thanh vang dội khắp thung lũng.
            Ba người kia liền dừng chân, ngoảnh đầu dáo dác như thể đang tìm kiếm xung quanh. Họ quay ngang quay ngửa, còn Nunez thì vẫy tay cuống quít ra hiệu. Song họ lại không tỏ ra vẻ gì là đã trông thấy hắn mặc dù hắn đã ra hiệu rối rít nên sau đó một lúc, họ lại tiến về phía dãy núi xa xa nằm ở mé tay phải, và cất tiếng gọi to như để đáp lại. Nunez lại gào lên, và một lần nữa trong khi vẫy tay lia lịa ra hiệu mà vẫn vô hiệu quả, cái tiếng “mù” lại lóe ra trong đầu óc hắn: “Không khéo mấy anh chàng này mù thật chứ không phải chơi!”
            Cuối cùng, sau khi gào chán chê đến phát cáu, Nunez băng qua chiếc cầu nhỏ bắt ngang dòng suối, bước qua một cái cổng đục trong tường và tiến đến gần họ thì mới biết là bọn họ mù thật. Hắn liền hiểu ra đây chính là xứ sở của người mù mà người ta vẫn kể trong các chuyện truyền kỳ. Hắn thấy mình trở nên vững tâm và có cảm giác được trải qua một cuộc mạo hiểm rất đáng cho mọi người mơ ước. Ba người kia thì đứng lại sát vai nhau, không nhìn hắn nhưng tai lại vểnh về phía hắn, lắng nghe tiếng bước chân khác lạ của hắn, hơi ra chiều sợ hãi, và hắn có thể thấy rõ mi mắt họ bị khép chặt và trũng sâu xuống như thể là nhãn cầu bên dưới đã teo lại. Vẻ hoang mang lo sợ hiện lên nét mặt họ.
            “Có ngườI”, một người thốt lên bằng thứ tiếng Tây ban nha lơ lớ. “Đúng là có người - người hay là quỷ thần gì đó - từ phía những tảng đá xuống đây”.
            Nhưng Nunez thì vẫn mạnh dạn tiến lên như một chàng thanh niên mới bước chân vào đời. Tất cả những câu chuyện kể về cái thung lũng đã tuyệt tích và xứ sở của người mù lại hiện ra trong trí hắn, rồi thì một câu ngạn ngữ xưa cứ láy đi láy lại trong đầu hắn như một điệp khúc:
            “Trong xứ sở người mù thì kẻ chột làm vua”.
            “Trong xứ sở người mù thì kẻ chột làm vua”.
            Bằng một giọng rất lễ phép, hắn cất tiếng chào bọn họ và đưa mắt quan sát.
            “Người này từ đâu đến vậy, Pedro?”một người lên tiếng hỏi.
            “Từ phía những tảng đá trên kia xuống”.
            “Tôi từ bên kia dãy núi đến đây”, Nunez cải chính. “Từ một miền xa xôi, nơi mà ai ai cũng nhìn được. Từ một nơi gần Bogota, chỗ có hàng trăm ngàn dân cư, một thành phố xa khuất nẻo đây”.
            “Nhìn?” Pedro lẩm bẩm. “Nhìn?”
            “Người này từ những tảng đá xuống”, người mù thứ nhì lặp lại.
            Numez nhìn quần áo họ mặc rất kỳ quặc, chắp vá lung tung bằng những đường kim mũi chỉ khác loại nhau. Họ làm hắn giật nẩy mình khi họ đồng loạt tiến lên, và cùng vươn tay ra. Hắn vội lùi lại, tránh né những ngón tay đang xòe ra.
            “Lại đây”, người mù thứ ba lên tiếng, khi dọ dẫm theo tiếng bước chân và tóm chặt được hắn.
            Và họ giữ chặt lấy Numez, rờ rẫm anh ta từ đầu đến chân và không nói thêm một tiếng nào cho tới khi sờ soạng xong.
            “Ấy, cẩn thận chứ!” Nunez hoảng sợ kêu lên khi có một ngón tay đè lên mắt hắn và biết là họ cho rằng ổ mắt của hắn có mi chuyển động được là một vật kỳ quặc. Họ lại sờ thử một lần nữa.
            “Người này quái lạ lắm, Correa”, người tên là Pedro thốt. “Sờ thử tóc nó mà xem, cứng y như lông đà mã vậy”.
            “Lại sù sì như những tảng đá đã sinh ra nó”, Correa nói trong khi vuốt ve cái cằm chưa cạo râu của Nunez với bàn tay mềm hơi ươn ướt. “Mong là rồi đây nó cũng có thể trở nên trơn tru hơn!”
            Nunez hơi vùng vẫy khi bị bọn họ sờ nắn nhưng bọn họ ghì chặt lại.
            “Ấy, cẩn thận chứ!” Nunez nhắc lại lần nữa.
            “Nó nói được, chắc chắn nó là người rồi”, người mù thứ ba lên tiếng.
            Pedro mân mê cái áo khoác sù sì của Nunez và kêu lên: “Ồ ghê quá!”
            “Và thế là nó đã bước vào thế giới cuộc đời rồi đấy hả?” Pedro hỏi.
            “Bước ra khỏi thì đúng hơn. Ngay bên trên những dãy núi và những băng hà, chừng nửa khoảng đường lên mặt trời. Ra ngoài cái thế giới bao la xuôi xuống còn mất đến mười hai ngày đường nữa mới ra tới biển được”.
            Bọn họ có vẻ như chẳng để ý gì đến những lời hắn vừa thốt.
            “Ông cha chúng ta có dạy rằng con người có thể được tạo ra bởi những lực thiên nhiên”, Correa nói. “Đó chính là hơi nóng kết hợp với sự ẩm ướt và sự mục nát của vạn vật hóa thành”
            “Chúng ta hãy dẫn nó đến gặp các bô lão đi”, Pedro đề nghị.
            “Hãy gọi to lên báo tin trước đã kẻo đám trẻ con sợ. Đây là một trường hợp hy hữu”, Correa bàn.
            Thế là họ hô vang lên, rồi Pedro dẫn đầu, nắm tay Nunez lôi đi về phía có nhà cửa.
            Nunez rút tay ra, nói: “Tôi nhìn thấy đường mà”.
            “Nhìn thấy à?” Correa hỏi lại.
            “Phải, tôi nhìn được”, Nunez vừa nói vừa quay mặt về phía Correa thì va nhằm cái thùng của Pedro.
            “Giác quan của nó chưa hoàn hảo”, người mù thứ ba nói. “Chẳng những đã vấp váp, nó lại còn nói toàn những tiếng vô nghĩa. Hãy nắm tay nó mà lôi đi cho xong”.
            “Thôi cũng được”. Nunez vừa nói vừa cười và để mặc cho bọn họ dẫn đi.
            Dường như bọn họ không biết tí gì về đôi mắt sáng biết nhìn được.
            Không sao, rồi cũng có lúc thuận tiện nào đó hắn sẽ dạy cho họ hiểu.
            Hắn nghe có tiếng hô hoán gọi nhau và lố nhố một số người tụ tập ngay con đường giữa  làng.
            Thần kinh hắn như căng thẳng lên và hắn cảm thấy mình mất kiên nhẫn hơn là hắn vẫn tưởng khi chạm mặt lần đầu tiên với đám cư dân của cái xứ người mù này. Càng đến gần, khu đất ấy càng có vẻ rộng rãi hơn và những mầu sắc của lớp vữa trát trên tường càng thêm quái dị, và một đám đông vừa đàn ông vừa đàn bà, trẻ con (hắn có vẻ hài lòng nhận ra là trong đám các bà các cô, vẫn có vài khuôn mặt duyên dáng nếu không kể đến đôi mắt bị khép kín và lõm sâu vào) xúm lại vây quanh, nắm lấy hắn, sờ mó với những bàn tay mềm nhạy cảm, ngửi ngửi, cũng như lắng nghe từng tiếng nói của hắn. Tuy nhiên cũng có một vài đứa trẻ và mấy cô gái lại đứng xa ra như có vẻ sợ hãi. Mà quả thật giọng nói của hắn có vẻ ồ ề, thô bạo so với âm thanh dịu nhẹ hơn của họ. Họ xúm xít quanh hắn. Ba người dẫn độ kèm sát một bên như canh giữ hắn làm của riêng, miệng luôn nhắc đi nhắc lại mãi một câu:
            “Một dã nhân từ những tảng đá xuống”.
            “Ở Bogota. Bogota, ở mãi phía bên kia đỉnh dãy núi”, Nunez cải chính.
            “Một dã nhân” chỉ nói được tiếng man rợ” Pedro lên tiếng. “Bà con nghe nó nói đấy chứ? BOGOTA? Trí óc nó chưa hoàn chỉnh, nó chỉ mới học nói bập bẹ thôi”.
            Một thằng bé gặm tay hắn và nói với giọng giễu cợt: “Bogota!”
            “Đúng thế! Phải nói đấy là một thành phố so với cái làng này. Tôi đến từ một thế giới rộng lớn - nơi mà mọi người đều có đôi mắt sáng và nhìn được”.
            “Tên nó là Bogota”, họ bảo nhau.
            “Nó đi đứng loạng quạng, đã bị vấp những hai lần trên đường đi đến đây”. Correa mách.
            “Dẫn nó vào gặp các bô lão đi thôi”.
            Họ đột ngột đẩy hắn qua cửa vào một gian phòng tối om như mực ngoại trừ phía cuối phòng hơi le lói ánh lửa. Đám đông theo bén gót hắn, che lấp hầu hết cái ánh sáng bên ngoài chỉ còn lờ mờ, và hắn chưa kịp dừng lại thì đã thấy mình loạng choạng vấp ngã chúi nhào lên chân một người đang ngồi. Trong khi chúi ngã, tay hắn lại quờ quạng đập nhằm mặt một người khác và hắn có cảm giác đụng phải một cái gì rất mềm mại và nghe có tiếng kêu giận dữ, rồi thì trong một lúc lâu, hắn cứ phải vùng vẫy để tránh né những bàn tay cố đè chặt lấy hắn. Đây là cuộc đấu vật chỉ một chiều. Như chợt nhận ra được tình thế, hắn bèn nằm im, nói:
            “Tôi bị ngã. Tôi không thể nào nhìn thấy gì ở cái chỗ tối om như hũ nút này”.
            Có một sự dừng tay, hình như những người ở chung quanh mà hắn không nhìn thấy đang cố tìm hiểu lời hắn vừa thốt. Rồi có tiếng của Correa cất lên:
            “Nó chỉ là một kẻ mới thành hình, đi đứng còn loạng quạng, và nói năng thì lẫn lộn những tiếng vô nghĩa”.
            Những người khác xen vào bàn tán về hắn, nhưng hắn không nghe rõ hay không hiểu rõ.
            “Tôi ngồi dậy có được không?” hắn hỏi sau một hồi yên lặng. “Tôi hứa là sẽ không vùng vẫy chống lại các người nữa”.
            Họ bàn bạc với nhau rồi cho phép hắn ngồi lên.
            Có tiếng một bô lão cất lên bắt đầu hạch hỏi hắn và Nunez thì cố gắng giải thích về cái thế giới rộng lớn bên ngoài mà hắn vừa bị sẩy chân ra khỏi, về bầu trời, núi non, về tất cả những gì khác nữa gọi là phong cảnh cho các bô lão ngồi trong bóng tối của cái xứ người mù này nghe. Hắn không ngờ là họ lại chẳng chịu hiểu và cũng chẳng chịu tin bất cứ điều gì hắn kể. Thậm chí họ còn không hiểu nổi nhiều từ ngữ hắn dùng. Đã từ mười bốn đời nay rồi, họ bị mù và không còn dính dáng gì với thế giới của những kẻ mắt sáng, nên tên gọi những vật nhìn thấy được bằng mắt đã phôi pha và biến đổi, câu chuyện về cái thế giới bên ngoài phai nhạt dần và hóa thành một câu chuyện cổ tích chỉ kể cho trẻ con nghe, và họ cũng không còn quan tâm gì đến những cái xảy ra ở bên kia cái sườn dốc đá, phía trên bức tường bao quanh. Các nhà thông thái mù nảy sinh từ đám người mù đã đặt lại vấn đề đối với những điều còn sót lại của các tín điều hay tập tục mà họ đã mang theo từ những ngày người dân xứ này còn nhìn thấy được bằng đôi mắt và coi đó chỉ là những điều hoang tưởng nên đã loại bỏ hết để thay thế vào bằng những lối giải thích mới mẻ và phù hợp hơn. Óc tưởng-tượng của họ phần lớn cũng teo lại theo đôi mắt và họ có những tưởng tượng mới dựa trên những sự cảm nhận của đôi tai và những ngón tay của họ đã trở nên bén nhạy thêm. Dần dần Nunez nhận ra rằng: niềm trông mong thấy họ sẽ ngạc nhiên hay thán phục về nguồn gốc cũng như những khả năng thiên phú của hắn sẽ không bao giờ xảy ra, và sau khi hắn đã cố gắng nhưng thất bại thê thảm trong việc giải thích cho bọn họ “nhìn” là gì và bị họ gạt phăng đi như là những lời nói lăng nhăng của một kẻ mới tượng thành hình người, đang cố mô tả lại những cảm giác rời rạc và kỳ diệu, hắn đành khuất phục, dẫu hơi bực dọc, để lắng nghe những lời dạy dỗ của họ. Và một người già nhất trong bọn họ giảng cho hắn nghe về đời sống, tôn giáo, triết học, và bằng cách nào cái thế giới (nghĩa là cái thung lũng của họ) lúc ban đầu chỉ là một cái lòng chảo trống rỗng giữa những tảng đá, và sau đó đã xuất hiện những bất động vật không biết cảm giác trước tiên, rồi đến loài đà mã và vài sinh vật khác có trí khôn chưa phát triển đủ, sau nữa đến loài người, và cuối cùng là những thiên thần mà ai cũng có thể nghe thấy tiếng hát và tiếng vỗ cánh nhưng không ai có thể sờ mó được. Điều này thoạt nghe đã khiến cho Nunez bối rối mãi cho đến khi hắn nghĩ ra đó chính là loài chim.
            Vị trưởng lão tiếp tục giảng cho Nunez hiểu là thời gian được chia thành nóng và lạnh như thế nào đối với người mù, có nghĩa là ngày và đêm của chúng ta, và tại sao nên đi ngủ lúc khí trời ấm áp, và làm việc khi trời lạnh giá, cho nên vào giờ này nếu không phải vì có sự xuất hiện của hắn thì tất cả mọi người ở đây đều đang ngon giấc. Ông ta nói nhất định Nunez được tạo ra là để học tập và phụng sự cho những sự hiểu biết và khôn ngoan mà họ đã tích lũy được, và cho dù trí khôn của hắn hãy còn non nớt chưa mạch lạc, cách hành xử còn vụng về, hắn vẫn phải tỏ ra can đảm và phải dốc lòng học hỏi không được chểnh mảng. Tới đây thì tất cả những người đứng lố nhố ở cửa cũng đều thì thầm khuyến khích theo. Ông già lại nói rằng đêm - đối với họ, ngày chính là đêm - đã khuya lắm rồi, ai nấy nên quay về đi ngủ. Ông ta hỏi Nunez có biết thế nào là đi ngủ không, và Nunez đáp là biết nhưng trước khi đi ngủ hắn muốn có một chút gì để ăn cái đã.
            Họ đem thức ăn đến gồm có sữa đà mã đựng trong một cái tô và ít bánh mì thô được nêm muối, rồi dẫn hắn đến một chỗ vắng vẻ để họ khỏi nghe tiếng hắn sột soạt khi ăn, và sau đó thì ngủ một mạch cho tới khi không khí buốt lạnh buổi chiều miền núi đánh thức họ dậy để bắt đầu một ngày mới. Nhưng Nunez không hề chợp mắt.
            Thật thế, hắn ngồi ngay tại chỗ họ dẫn hắn đến, duỗi chân tay ra nghỉ ngơi và suy đi nghĩ lại về những diễn biến hoàn toàn bất ngờ đã đưa đẩy hắn đến đây. Thỉnh thoảng hắn bật lên cười, khi thích thú, khi lại giận dữ:
            “Đầu óc chưa thành hình!” hắn nói. “Chưa có đủ tri giác!” Đúng là bọn họ không hề biết là họ đã sỉ nhục vị Vua và là bậc chúa tể mà Trời vừa ban cho họ...
            “Mình cần phải dạy cho họ biết lý lẽ.
            “Để nghĩ xem nào.
            “Để nghĩ xem...”
            Khi mặt trời đã lặn hẳn, hắn vẫn ngồi trầm ngâm.
            Nunez là một kẻ biết nhìn ra những cái đẹp trên đời, và đối với hắn thì cái ánh sáng lung linh trên những cánh đồng tuyết phủ và những con sông đóng băng nổi bật lên ở mọi phía của thung lũng là những điều đẹp nhất mà hắn chưa hề thấy. Mắt hắn lướt đảo một vòng từ khung cảnh huy hoàng của trời chiều đến ngôi làng và những cánh đồng được tưới bón đang chìm nhanh vào bóng tối nhá nhem và đột nhiên hắn cảm thấy một cơn xúc động dâng trào và hắn hết lòng cảm ơn Thượng đế đã ban cho hắn một đôi mắt nguyên lành.
            Có tiếng người réo gọi hắn từ phía ngoài làng.
            “Bớ Bogota! Lại đây!”
            Nghe thấy thế Nunez liền đứng lên, mỉm cười. Hắn sẽ cho họ biết thế nào là một người nhìn được. Họ sẽ phải đi tìm hắn và họ sẽ không tài nào tìm thấy.
            “Này Bogota, đừng đi bậy!” giọng nói lại cất lên.
            Nunez cười lặng lẽ, khẽ rón rén vài bước ra khỏi lối đi.
            “Bogota! Đừng dẵm bừa lên cỏ, cấm ngặt đấy”.
            Rõ ràng Nunez cũng khó nhận ra tiếng chân mình di chuyển. Hắn đứng lại, sửng sốt.
            Người vừa lên tiếng chạy xăm xăm trên con đường lát đá khoang về phía hắn.
            Hắn vội lùi về lại trong lối đi và lên tiếng:
            “Tôi ở đây này”.
                        “Tại sao mi không đến khi nghe ta gọi?” người mù vặn hỏi. “Mi muốn ta phải dắt đi như dắt đứa trẻ con hay sao? Mi không nghe được tiếng bước chân của mình à?”
            Nunez cười: “Tôi có thể nhìn thấy đường mà”.
            “Không có tiếng gì gọi là NHÌN cả”, người mù bảo sau một lúc yên lặng. “Hãy bỏ cái trò ăn nói vớ vẩn ấy đi và dò nghe tiếng bước chân của ta mà theo”.
            Nunez bước theo, hơi khó chịu.
            “Rồi cũng có ngày tới phiên ta cho nhà ngươi biết tay”, Nunez nói.
            “Mi còn phải học tập nhiều”, người mù đáp. “Còn rất nhiều thứ mi cần phải học hỏi trong cái thế giới này”.
            “Bộ không ai nói cho các người biết cái câu 'Trong xứ sở người mù thì kẻ chột làm Vua' à?”
            “Mù là cái gì?” người mù nghiêng qua vai hắn lơ đãng hỏi.
            Bốn ngày trôi qua và đến ngày thứ năm, vị Vua của cái xứ Người Mù vẫn chỉ là một tên tiểu tốt vô danh xa lạ, vụng về, vô tích sự giữa đám thần dân của mình.
            Nunez nhận ra là việc xưng vua khó hơn hắn tưởng và trong bao lâu hắn chưa mưu đồ làm một cuộc đảo chính thì hắn còn cứ phải tuân theo mệnh lệnh của họ, học cung cách, cũng như các tập tục của Xứ Người Mù. Hắn nhận thấy sự làm việc và di chuyển ban đêm là một điều thật ngán ngẫm nên quyết định rằng đó sẽ là cái điều hắn cần thay đổi trước nhất.
            Thật ra thì những người mù này sống bình dị, siêng năng, với đầy đủ những đức tính về đạo đức và hiểu biết về hạnh phúc như mọi người. Họ lao động nhưng không quá quần quật với công việc, họ có dư giả thực phẩm và trang phục cho mình, có ngày nghỉ và mùa nghỉ ngơi, họ thích đàn hát và cũng biết yêu đương, sinh con đẻ cái.
            Điều đáng khâm phục là họ di chuyển đó đây một cách đầy tự tin và chính xác trong cái thế giới ngăn nắp của họ. Vật gì ở đây cũng được rập theo cách có thể thích ứng với nhu cầu của họ, mỗi con đường từ trung tâm thung lũng toẻ ra đều có một độ bẻ góc giống hệt nhau và được phân biệt bằng một vết khía riêng ở vỉa hè. Tất cả mọi chướng ngại vật hay những chỗ lồi lõm trên các lối đi, trên cánh đồng cỏ đều đã được san bằng dẹp bỏ từ lâu. Dĩ nhiên là tất cả những phương pháp hay lề lối làm việc đều là do nhu cầu đặc biệt của họ mà nảy sinh. Giác quan họ đã trở nên bén nhạy và chính xác một cách phi thường, họ có thể nghe và nhận ra được cả một cử chỉ rất nhẹ của một người đứng cách xa hàng chục bước, có thể nghe được cả tiếng tim người kia đập. Đã từ lâu đối với họ, giọng nói thay thế cho nét mặt, hay giáng điệu. Họ có thể sử dụng cuốc, thuổng, cái chĩa ba để làm công việc một cách thoải mái và nhuần nhuyễn như bất cứ một người làm vườn bình thường nào. Khứu giác của họ cũng rất bén nhạy, họ có thể phân biệt hơi người này với người khác y như loài chó, và họ cũng có thể đi nuôi những con đà mã ở trên núi xuống kiếm thức ăn hay chỗ trú ngụ nơi chân tường một cách dễ dàng, không chút e ngại. Cuối cùng Nunez so lại họ với mình thì mới khám phá ra những hành động của họ rất chính xác và đầy tự tín đến bậc nào.
            Nunez chỉ phản kháng sau khi thử thuyết phục họ mà không xong.
            Thoạt đầu, nhiều lúc hắn muốn giảng cho họ hiểu thế nào là nhìn được: “Bà con hãy nghe đây, có nhiều điều bà con không hiểu tôi đâu”, hắn nói.
            Họa hoằn cũng có một hai người chịu khó để tai nghe. Họ ngồi, mặt cúi xuống, khéo léo hướng tai về phía hắn và hắn cố gắng giảng cho họ hiểu nhìn nghĩa là gì. Trong số những người nghe hắn có một cô gái mà hai mi mắt ít đỏ và không lõm sâu vào như những người khác, khiến người ta có cảm tưởng như cô ta chỉ nhắm lại che giấu hai con mắt đi, và cô ta là người hắn đặc biệt muốn thuyết phục. Hắn tả những cái đẹp mà chỉ có mắt mới nhìn thấy như những ngọn núi, bầu trời, cảnh mặt trời mọc và họ lắng nghe hắn nói, mới đầu còn cho đó như chút trò mua vui, nhưng cuối cùng lại trách. Họ bảo cho hắn biết là thật ra không có cái gì gọi là núi non cả và chỗ tận cùng của những tảng đá mà loài đà mã thường gặm cỏ cũng là tận cùng của thế giới, và tiếp đó vươn ra cái mái vòm khum của vũ trụ, sương và thác nước đổ xuống từ đấy; và khi hắn cả quyết rằng vũ trụ không có chỗ tận cùng và cũng không có cái mái vòm khum như họ tưởng thì họ bảo rằng lối suy nghĩ như hắn là có tội. Cho tới nay, nghe hắn tả những cảnh trời mây, trăng sao, họ chỉ thấy đó là một cái gì rỗng tuếch, gớm ghiếc, thay vì cái mái vòm khum nhẵn nhụi mà họ tin tưởng - đó cũng là một điều trong đức tin của họ rằng cái mái vòm khum là nhẵn nhụi khi sờ vào. Hắn nhận ra phần nào những điều hắn nói làm phật lòng họ nên bỏ qua khía cạnh này và thử chứng minh cho họ thấy giá trị thực tiễn của đôi mắt sáng. Một buổi sáng hắn trông thấy Pedro đang đi trên con đường Mười bảy, tiến về phía những ngôi nhà ở trung tâm, nhưng cũng còn khá xa để họ có thể nghe hay đánh hơi thấy, hắn liền báo trước: “Tí nữa Pedro sẽ tới đây”. Một ông già cãi là Pedro không có việc gì để đi trên đường Muời bảy, và như để chứng minh cho lời ông già, anh chàng kia khi đến gần thì lại quay người rẽ quặt sang đường Mười, và rảo bước về phía bức tường vây quanh bên ngoài. Họ bèn chế nhạo Nunez khi không thấy Pedro đến. Sau đó, hắn có gặng hỏi Pedro cho ra lẽ thì anh này lại gắt gỏng chối biến, và từ đó đâm ra căm ghét hắn.
            Lần khác, hắn lại dụ dỗ bọn họ để hắn leo lên cánh đồng cỏ dốc đến chân bức tường vây với một người nào tình nguyện đi theo và hắn hứa là sẽ tả cho người ấy tất cả những gì xẩy ra tại các ngôi nhà trong làng. Hắn nhận thấy họ đi đi lại lại, nhưng những sự việc mà họ cần được hắn nêu ra thì lại xảy ra ở bên trong hoặc đằng sau những ngôi nhà không có cửa sổ - những cái mà họ đã có chủ ý nhằm vào để thử tài hắn - thành thử hắn lại không thể nào trông thấy hay tả ra được, và họ thì lại chỉ có thể phê phán hắn qua những sự việc này, và cũng sau lần thất bại ấy và bị bọn họ chê cười mãi mà hắn xoay ra dùng vũ lực.
            Hắn định chụp lấy một cái thuổng rồi bất ngờ quật ngã một vài người trong bọn để cho họ thấy, trong một cuộc đấu đá so tài, thì người có mắt sáng vẫn hơn. Và hắn cũng đã chụp ngay cái thuổng của mình, nhưng vừa lúc ấy hắn khám phá ra có một điều mới lạ trong hắn, đó là hắn không tài nào thản nhiên đánh kẻ bị mù.
            Hắn lưỡng lự, và nhận ra là bọn họ cũng đã biết hắn đã nắm được một cái thuổng. Họ đứng thủ thế, đầu nghiêng về một bên, còn tai vểnh lên hướng về phía hắn, chờ nghe động tĩnh.
“Bỏ cái thuổng xuống”, một người ra lệnh. Và hắn cảm thấy mình hoảng kinh đến độ thừ người ra. Hắn đã định bụng tuân theo bọn họ.
            Đột nhiên, hắn xô một người bắn lùi về phía cái vách nhà, phóng qua mặt người này và thoát chạy ra khỏi làng.
            Hắn chạy băng qua cánh đồng cỏ, để lại đàng sau một hàng dấu chân dãm bừa trên cỏ, rồi ngồi xuống bên lề một con đường. Hắn cảm thấy như có chút gì hồi hộp trong lòng như những người trước khi xông ra trận vẫn có, nhưng hoang mang hơn. Hắn cũng bắt đầu nhận ra rằng người ta không thể đánh nhau một cách thoải mái với những kẻ trí tuệ không đồng đẳng với mình. Hắn thấy đằng xa một bọn người mang thuổng cuốc, gậy gộc từ những con đường có nhà cửa đang dàn thành hàng ngang trên những con đường tiến về phía hắn. Họ bước từ từ, chốc chốc lại chụm đầu bàn tán với nhau, và thỉnh thoảng cả bọn còn dừng lại lắng tai và đánh hơi.
            Lần đầu tiên thấy họ làm như thế, Nunez phì cười. Nhưng sau đó thì hắn không cười được nữa. Một người nhận ra có dấu chân hắn trên đồng cỏ, liền ngừng lại dò dẫm theo vết đó tìm hắn.
            Trong năm phút, Nunez ngắm hàng người chầm chậm tiến lên rồi vì chưa biết phải làm gì để đối phó nên cuống lên. Hắn đứng dậy bước vài bước về phía bức tường vây quanh rồi xoay mình trở gót đi ngược lại. Đằng kia, đám người mù cũng đang đứng dàn theo hình cánh cung, yên lặng lắng tai.
            Hắn cũng đứng yên, hai tay nắm chặt cái cán thuổng. Có nên đập cho họ một trận không? Nhịp mạch trong tai hắn đập lùng bùng theo điệu “Trong xứ sở người mù thì kẻ chột làm Vua!”
            Có nên phang bừa lên bọn họ một trận không?
            Hắn quay nhìn bức tường thẳng đứng mà không cách nào trèo lên được đằng sau lưng, không trèo được vì tường được trát một lớp vữa nhẵn nhụi ngoại trừ những nơi có đục cửa ra vào nhỏ, và đám người truy lùng hắn đang nhích lại gần. Đằng sau họ, cũng có vô số những người khác đang bước ra khỏi con đường có nhà cửa. Có nên đập cho họ một trận không?
            “Bogota! Bogota! Mi ở đâu thế?” một người hỏi lớn.
            Hắn bèn nắm cái thuổng thật chặt hơn nữa, và đi lần xuống đồng cỏ đến khu vực nhà ở. Hắn vừa chuyển bước thì bọn họ cũng liền quay dồn về phía hắn. “Nếu bọn mày mà đụng đến ta là ta sẽ nhất quyết nện cho bọn mày biết tay ! Hắn thề như thế. “Lạy Trời, ta phải nện cho chúng một trận đích đáng mới được”. Rồi hắn thét lên: "Này, các người hãy nghe tôi nói đây. Tôi sẽ chỉ làm theo những cái gì tôi thích ở tại cái thung lũng này. Các người đã nghe ra chưa? Tôi chỉ làm những gì tôi thích và đi đến chỗ nào tôi muốn”.
            Họ xông tới vây lấy hắn, mặc dù là quờ quạng nhưng vẫn nhanh lẹ, chẳng khác gì những người chơi trò bịt mắt bắt dê, chỉ khác là ở đây tất cả đều bịt mắt trừ một người.
            “Túm lấy nó!” một người hét lên. Hắn thấy mình bị lọt vào một cái vòng vây rời rạc của đám người săn đuổi. Đột nhiên, hắn thấy mình cần phải cương quyết và ra tay ngay.
            “Các người không hiểu gì cả”, hắn gầm lên, cố làm ra vẻ dõng dạc nhưng thật ra thì đang run sợ. “Các người thì bị mù, còn tôi là kẻ sáng mắt. Hãy để cho tôi yên thân!”
            “Bogota! bỏ cái thuổng xuống lập tức và bước ra khỏi đám cỏ!”
            Cái mệnh lệnh vừa rồi mang vẻ lỗ mãng khác với lối ăn nói thị thành làm hắn nổi giận: “Tôi sẽ đập các người đó”. Hắn vừa nói vừa khóc vì xúc động. “Tôi thề là tôi sẽ đập các người một trận cho mà xem! Hãy để cho tôi yên đi!”
            Hắn bắt đầu bỏ chạy, nhưng không biết phải chạy đi đâu. Hắn chạy né tránh người mù đang đứng gần nhất bởi vì  hắn cảm thấy ghê tởm nếu như phải đánh người này. Hắn dừng lại rồi vọt mình thoát khỏi vòng vây đang thu hẹp dần. Thấy chỗ nào có kẽ hở là hắn nhào tới, nhưng những người mù đứng hai bên vừa nghe tiếng chân hắn là đổ xô lại nhanh như chớp, va cụng cả vào nhau. Hắn phóng về phía trước, nhưng thấy mình cũng không có lối thoát, và rồi cái thuổng đã quất xuống nghe một tiếng “phập”! Hắn cảm thấy cái thuổng đã đánh nhằm tay ai đó mềm mềm, rồi người ấy ngã xuống kêu lên đau đớn, và thế là hắn thoát nạn.
            Thoát! Nhưng giờ thì hắn lại đang ở gần con đường cái hai bên có nhà, và đám người mù đang vung thuổng cuốc gậy gộc, chạy đi chạy lại khá nhanh.
            Hắn vừa kịp nghe có tiếng bước chân ở sau lưng thì đã thấy một người cao lớn nhào đến và nghe có tiếng hắn liền phang mạnh xuống. Hắn mất bình tĩnh, lao mạnh cái thuổng về phía đối thủ cách chừng một thước, quơ một vòng rồi bỏ chạy, và gào lên khi tránh một người mù khác.
            Hắn trở nên hốt hoảng, chạy tới chạy lui như cuồng, tránh né khi không cần phải tránh né, và vì quá kinh hoảng muốn nhìn một lúc cả bốn phía nên bị vấp ngã lăn kềnh ra. Hắn nằm kềnh ra đó một lúc và đám người mù đã nghe thấy tiếng hắn bị té ngã. Tuốt đằng xa, nơi bức tường thành có một cái cửa nhỏ trông chẳng khác cảnh thiên đường, thế là hắn chạy thục mạng về phía ấy. Hắn không buồn quay lại nhìn những người đuổi theo đằng sau mãi tới khi yên trí đã bỏ rơi họ một quãng xa và hắn lảo đảo vượt qua cái cầu, cố tìm cách leo lên những tảng đá khiến một con đà mã nhỏ kinh ngạc và hoảng sợ nhảy vọt ra thật xa rồi nằm xuống lấy lại hơi thở.
            Thế là cuộc đảo chính của hắn coi như kết thúc.
            Hắn trốn lại ngoài bức tường vây quanh thung lũng suốt hai ngày đêm, không thức ăn, không nơi trú ẩn, ngẫm nghĩ  về những cái oái oăm của cuộc đời. Trong những lúc suy ngẫm miên man hắn lại càng nhắc đi nhắc lại một cách hết sức khôi hài câu ngạn ngữ trớ trêu “Trong xứ sở người mù thì kẻ chột làm Vua!” Suy nghĩ  quan trọng nhất của hắn là làm sao để chiến đấu và chinh phục đám người mù, nhưng chỉ càng làm rõ ràng hơn là hắn vô phương. Hắn không có lấy một tấc sắt nào và bây giờ muốn có khí giới cũng khó.
            Cái mặt dở của văn minh cho dù ở một nơi như Bogota vẫn đeo đẳng hắn làm cho hắn không thể nhẫn tâm sát hại một kẻ mù. Dĩ nhiên nếu nhẫn tâm được thì hắn đã có thể uy hiếp họ, ra điều kiện, và giết sạch hết những ai không tuân theo hắn. Thế nhưng...  Đằng nào thì hắn cũng phải ngủ cái đã...
            Hắn cũng thử sục sạo dọc theo các rặng thông để kiếm thức ăn và tìm chỗ nghỉ dưới vòm cây thông khi trời đổ sương đêm và - mặc dù không tin tưởng -  tìm cách thử bắt một con đà mã rồi giết nó - có lẽ dùng đá đập chết nó chẳng hạn - để sau đó thử ăn thịt của nó. Nhưng mấy con đà mã lại tỏ ra nghi kỵ hắn, nên nhìn hắn với cặp mắt nâu e dè, và phun phè phè mỗi khi hắn mon men lại gần. Đến ngày thứ nhì thì  hắn bắt đầu sợ và run lẩy bẩy, và lúc lúc lại rùng mình. Cuối cùng, hắn đành lết xuống bức tường thành vây quanh xứ người mù, và tìm cách thương lượng. Hắn bò men theo bờ suối, cất tiếng gọi to cho tới khi có hai người mù bước ra khỏi cổng và tiếp chuyện với hắn.
            “Tôi đã quá điên rồ”, hắn nói, “nhưng tại tôi chỉ là một kẻ mới được tượng hình”.
            Họ nói là hắn đã biết điều rồi. Hắn nói với họ là bây giờ thì hắn đã khôn ngoan hơn rồi và biết hối hận về những điều hắn đã làm.
            Rồi hắn bật khóc mặc dầu không cố ý, vì hắn đã kiệt sức và đang bệnh. Và họ cho đấy là một dấu hiệu tốt.
            Họ hỏi hắn là hắn có còn nghĩ rằng hắn NHÌN được không?
            “Không”, hắn trả lời. “Đó là điều ngông cuồng. Tiếng đó không có nghĩa gì cả, hoàn toàn vô nghĩa”.
            Họ lại hỏi phía trên đầu có gì?
            “Trên cao cỡ chừng mười lần mười chiều cao của một người có một cái mái vòm khum bao trùm thế giới - bằng đá - và nhẵn nhụi, rất là nhẵn nhụi. Và nhẵn nhụi biết bao - nhẵn nhụi một cách đẹp khôn tả...” Hắn lại bật lên khóc nức nở. “Trước khi các người hạch hỏi thêm nữa, hãy cho tôi chút gì để ăn cái đã nếu không tôi chết mất!”
            Hắn trông chờ một sự trừng phạt đích đáng, song những người mù lại tỏ ra biết tha thứ. Họ cho là cuộc nổi loạn của hắn chính là bằng chứng về sự  đần độn, thấp kém của hắn, và sau khi đã phạt đòn hắn, họ giao cho hắn làm những công việc không mấy quan trọng, nhưng lại nặng nề nhất mà họ phải làm, còn hắn thấy mình không còn con đường sống nào khác, đành răm rắp tuân theo.
            Hắn bị ốm nằm liệt mất mấy ngày và họ săn sóc hắn tử tế. Điều này khiến hắn ngoan ngoãn phục tùng hơn. Nhưng họ cứ bắt hắn nằm trong tối làm hắn khổ sở vô cùng. Thế rồi các nhà hiền triết mù lục tục đến thăm hắn, giảng cho hắn hiểu về sự nông nổi rồ dại của hắn, và trách hắn đã dám to gan không tin có cái vung bằng đá che khắp cái vũ trụ như lòng chảo của họ đến nỗi hắn gần như đâm ra hoài nghi không biết có thực hắn không phải là nạn nhân của cái ảo tưởng khi không nhìn thấy cái vung bên trên.
            Thế là Nunez nghiễm nhiên trở nên cư dân của cái Xứ Người Mù và những người này bây giờ không còn mang một vẻ chung chung nữa mà được phân biệt theo từng cá tính của mỗi người và trở nên thân quen đối với hắn, trong khi đó thì cái thế giới bên kia rặng núi càng ngày càng thấy xa xăm và không còn thực nữa. Ở đây có Yacob, chủ hắn, một người tốt khi nào ông ta không gặp chuyện bực mình. Lại còn Pedro, cháu ông ta và Medina-sarote, con gái út của Yacob. Cô ta không mấy được ưa chuộng trong cái thế giới của người mù này vì cô có một khuôn mặt gãy gọn, và thiếu hẳn cái nét trơn tru nhẵn nhụi mà người mù coi là sắc đẹp lý tưởng nơi một người nữ, nhưng Nunez ngay thoạt đầu đã thấy cô ta đẹp và bây giờ thì cho là cô ta đẹp nhất trên trần đời. Cặp mi khép kín của cô ta không lõm sâu cũng không đỏ ửng như mắt những người khác ở đây, mà tựa hồ có thể mở ra lại bất cứ lúc nào; cô ta lại có cặp lông mi dài bị họ coi như là một sự biến dạng trầm trọng. Và giọng nói của cô ta thì lại nhỏ nhẹ không làm hài lòng đôi tai quen nghe những âm thanh nhạy bén của mấy chàng trai cục mịch theo đuổi, thành thử cô không có người yêu.
            Nunez nghĩ  nếu hắn chinh phục được tình yêu của Medina-sarote thì có lẽ hắn sẵn lòng lưu lại cái thung lũng này suốt đời.
            Thế là hắn theo dõi cô ta, tìm kiếm những cơ hội đỡ đần nàng đôi chút trong công việc và giờ thì hắn biết nàng cũng đã để ý đến hắn. Một lần nọ, trong một buổi họp mặt vào ngày nghỉ, hai người đã ngồi sát cạnh nhau dưới ánh sao mờ, lại có tiếng đàn dìu dặt bên tai. Hắn đã mạnh dạn đặt tay lên tay nàng và siết chặt lấy. Thế rồi nàng cũng đã dịu dàng siết lại tay hắn. Lại có một lần, trong khi đang ngồi ăn cơm trong bóng tối, hắn cảm thấy bàn tay của nàng nhẹ nhàng tìm kiếm hắn, vừa lúc tình cờ ngọn lửa lóe sáng, và hắn đã trông rõ vẻ thương yêu trìu mến hiện trên nét mặt của nàng.
            Hắn tìm dịp bắt chuyện với nàng. Một hôm hắn đến gặp nàng khi nàng đang ngồi quay sợi, dưới ánh trăng đêm hè. Hắn ngồi xuống sát bên chân nàng và nói với nàng là hắn yêu nàng, cũng như nói cho nàng biết là nàng đẹp biết bao đối với hắn. Bằng một giọng si tình, hắn nói với một vẻ tha thiết gần như tôn thờ, mà nàng thì chưa bao giờ được nghe những lời tán tụng khiến lòng mình xúc động như thế. Nàng không trả lời dứt khoát với hắn, nhưng rõ ràng những lời hắn thốt đã làm nàng xiêu lòng.
            Từ hôm đó, hễ lúc nào có dịp là Nunez lại mon men trò chuyện với nàng. Cái thung lũng này đã trở nên cái thế giới đối với hắn, còn cái thế giới bên kia dãy núi, nơi mà mọi người sống vào ban ngày đối với hắn bây giờ chẳng khác gì một chuyện thần tiên mà một ngày nào đó hắn sẽ kể cho nàng nghe. Bằng một giọng rụt rè và như để ướm thử, hắn đã nói cho nàng nghe về đôi mắt sáng biết nhìn.
            Tuy thế, sự nhìn thấy đối với nàng dường như chỉ là một sự tưởng tượng vô cùng thơ mộng mà thôi, và các vì sao, những ngọn núi, cũng như  vẻ đẹp sáng ngời của chính nàng dưới ánh sáng trắng, mà hắn mô tả và được nàng lắng nghe nhưng chỉ coi đấy như một sự khoan dung đối với điều tội lỗi. Nàng không thể nào tin và cũng chỉ hiểu lờ mờ nửa chừng, song nàng dường như bị quyến rũ say mê và hắn tưởng chừng như nàng đã thấu hiểu tất cả.
            Tình yêu của hắn bớt vẻ dè dặt, trở nên bạo dạn hơn. Hắn bèn xin Yacob và các chị của nàng cho hắn được xe duyên cùng nàng, nhưng nàng lại đâm ra sợ sệt và muốn trì hoãn. Và đầu tiên chính là một trong mấy cô chị của nàng đã mách với Yacob rằng Nunez và Medina-sarote đã yêu nhau.
            Ngay từ đầu, đã có một sự chống đối mạnh mẽ việc hôn nhân giữa Numez và Medina-sarote, không phải vì họ treo cao giá ngọc của nàng mà chính là vì họ coi Nunez chỉ là một kẻ không giống họ, một kẻ đần độn lại dở dở ương ương, ở dưới cả mức tồi tệ của một người đàn ông. Các chị nàng thì cay cú chống đối, vì cho rằng như thế là làm ngượng mặt hết cả bọn họ, và ngay cả Yacob, mặc dầu cũng đã có đôi chút thiện cảm với người gia nhân vụng dại nhưng phục tùng của lão, cũng phải lắc đầu bảo là không được. Còn các chàng thanh niên thì giận dữ khi nghĩ đến dòng giống họ đang bị thoái hóa, và có một chàng còn đi đến chỗ mắng chửi và hành hung Nunez. Hắn cũng quật lại thẳng tay. Đây chính là lần đầu tiên hắn thấy sự lợi hại của đôi mắt sáng nguyên lành, dẫu chỉ là nhìn ở một chỗ tranh tối tranh sáng, và sau lần xung đột ấy, bọn họ đâm ra kiêng nể, không còn ai dám khiêu khích Nunez nữa. Tuy nhiên họ vẫn khăng khăng không chấp nhận cuộc hôn nhân của hắn.
            Yacob rất thương yêu cô con gái út bé bỏng của mình nên lão càng buồn bã mỗi khi nàng gục vào vai lão mà thổn thức.
            “Con có thấy không, nó chỉ là một tên đần độn. Nó có những ảo tưởng và chẳng biết làm một cái gì cho ra trò”.
            “Con cũng biết thế”, Medina-sarote nức nở. “Nhưng anh ta đã khá hơn trước nhiều. Và anh ấy đang còn khá lên nữa. Anh ấy lại khỏe mạnh và tốt bụng nữa cha ạ - khỏe mạnh và tốt bụng hơn bất cứ chàng trai nào khác trên thế giới này. Với lại anh ấy thực lòng yêu con, và cha ơi, con cũng yêu anh ấy”.
            Già Yacob buồn khổ vô cùng khi thấy mình không làm sao khuyên giải được cô con gái, và hơn nữa, lão càng buồn khổ hơn vì chính lão cũng mến Nunez ở nhiều điểm. Thế là lão lân la đến căn phòng nghị sự không cửa sổ, nơi các vị bô lão hội họp, để nghe ngóng các câu chuyện họ bàn bạc và đợi dịp xen vào.
            “Thằng ấy bây giờ đã khá hơn trước nhiều. Chắc chắn rằng một ngày nào đó chúng ta cũng sẽ nhận ra là nó đã trở nên bình thường như tất cả chúng ta thôi”.
            Thế rồi sau đó, một cụ trong số những bô lão sau khi đã suy nghĩ chín chắn, đưa ra một đề nghị. Lão vốn là một bậc thông thái nhất trong số các vị bô lão, và cũng là vị lương y của họ, lại tinh thông lý học và giàu sáng kiến, và cái ý tưởng chữa lành bệnh cho Nunez đang ám ảnh ông ta.
            Một hôm, khi đang có mặt Yacob, ông ta gợi lại câu chuyện về Nunez.
            “Tôi đã xem xét căn bệnh của Bogota,” ông ta nói. “Và bây giờ thì tôi đã hiểu rõ được căn bệnh của nó rồi. Tôi cho là rất có thể chữa cho nó khỏi được”.
            “Đấy chính là điều tôi luôn luôn mơ ước”, già Yacob đáp.
            “Óc của nó bị nhiễm bệnh” vị lương y mù nói.
            Các bô lão thì thầm với nhau ra vẻ đồng tình.
            “Nhưng mà, cái gì đã khiến cho óc nó bị nhiễm bệnh?”
            Yacob thốt lên: “Ừ nhỉ!”.
            “Nó chính là cái này này”, vị lương y tự trả lời cho vấn đề mà mình nêu ra. “Đó là mấy cái vật kỳ quặc mà ta gọi là đôi mắt, và sự hiện diện của chúng như những nét lõm duyên dáng trên khuôn mặt, thì về trường hợp của Bogota, chúng lại bị biến dạng làm não bộ bị bệnh lây. Mắt nó bị cương lên, và có lông mi, còn hai mi mắt thì lại chuyển động được, chính vì thế mà óc nó thường xuyên ở vào trạng thái bị kích động, sinh ra nghễnh ngãng”.
            “Thật vậy sao?” Yacob hỏi. “Thật vậy sao?”
            “Và tôi nghĩ là nếu tôi không đến nỗi lầm khi tin rằng muốn cho nó khỏi hẳn căn bệnh đó, chỉ cần làm một việc mổ xẻ nhỏ, nghĩa là khoét bỏ cái vật gây kích động ấy đi”.
            “Và như thế là đủ để cho nó trở nên lành mạnh hẳn hả?”
            “Tạ ơn Thượng đế đã cho con người biết được khoa học!” Già Yacob thốt lên rồi lập tức chạy đi kiếm Nunez để báo tin mừng. Nhưng thái độ của Numez khi nghe báo tin vui lại có vẻ lạnh nhạt làm cho lão đâm ra chưng hửng và lên tiếng trách:
            “Cứ nghe cái giọng điệu của mi thì ai cũng nghĩ là mi chẳng tha thiết gì đến con gái ta cả!”
            Phải chính Medina-sarote mới thuyết phục nổi Nunez chịu đi mổ mắt cho trở thành mù.
            “Chẳng lẽ chính em - Hắn hỏi - cũng muốn cho anh phải phế bỏ đôi mắt sáng trời ban cho hay sao?” Medina sarote lắc đầu.
            “Thế giới của anh là thế giới của những người có đôi mắt nhìn thấy”. Nàng cúi đầu thấp hơn nữa.
            “Có những cái đẹp trong trời đất, những cái đẹp nho nhỏ - những đóa hoa, những mảng rêu xanh bám trên các tảng đá, vẻ mịn màng tươi sáng của bộ lông thú, bầu trời xa xăm với những đám mây ban mai lững lờ trôi, cảnh hoàng hôn rực rỡ và những vì sao. Và còn chính cả em nữa. Chỉ riêng vì em thôi anh cũng thấy mình cần có đôi mắt sáng để chiêm ngưỡng khuôn mặt hiền hòa, êm ả của em, đôi môi dịu ngọt, đôi cánh tay yêu qúy và đẹp đẽ của em chắp lại với nhau... Chính nhờ vào đôi mắt nhìn thấy của anh mà anh đã bị em chinh phục, đôi mắt này khiến cho anh gắn bó với hình bóng em, thế mà những kẻ ngu xuẩn kia lại toan hủy hoại chúng đi. Như thế là từ nay muốn tìm em anh sẽ phải sờ soạng, lắng nghe, nhưng không bao giờ còn trông thấy em được nữa. Anh sẽ phải chun dưới cái mái vòm khum bằng đá và sự tối tăm, cái mái khủng khiếp mà những người ở đây cúi mình khuất phục... Không! Chắc em cũng sẽ không muốn anh phải làm như thế  chứ?”
            Nunez thấy dấy lên trong lòng một nỗi hoài nghi buồn phiền. Hắn ngưng nói và bỏ lửng câu chuyện.
            “Em mong là”, nàng nói, “có một lúc nào đó...” nàng ngừng lại.
            “Em mong gì?” Hắn hỏi với vẻ hơi lo ngại.
            “Em mong là một lúc nào đó anh sẽ không nói như thế nữa”.
            “Như thế là thế nào?”
            “Em biết là những điều anh nói hay lắm, nảy sinh ra từ đầu óc tưởng tượng của anh. Em thích những cái đó, nhưng bây giờ thì...”
            Hắn cảm thấy cụt hứng, lạnh nhạt hỏi lại: “Bây giờ thì sao?”
            Nàng chỉ ngồi yên lặng.
            “Có phải em định nói... em nghĩ rằng... có lẽ anh nên... tốt hơn hết là anh nên...”
            Hắn hiểu ngay ý nàng muốn như thế nào. Hình như hắn cảm thấy giận dữ, giận cho cái số kiếp hẩm hiu, nhưng cũng thông cảm cho sự thiếu hiểu biết của nàng, một sự thông cảm gần giống như thương hại.
            “Em yêu”, hắn nói và hắn cũng nhìn thấy khuôn mặt trắng bệch của nàng biểu lộ sự căng thẳng về tinh thần đối với những điều nàng không thể thốt nên lời.
            Hắn ôm nàng trong vòng tay mình, hôn lên tai nàng, và cả hai cũng ngồi yên một lúc. Cuối cùng thì hắn khẽ dịu dàng hỏi:
            “Nếu như anh chấp thuận điều đó thì sao?”
            Nàng choàng tay ôm chầm lấy hắn, nước mắt nghẹn ngào: “Ồ, ước chi anh chấp thuận”, nàng thốt lên nức nở, “chỉ mong là anh chấp thuận!”
            Một tuần lễ trước khi thực hiện cuộc mổ mắt để hắn được nâng mình từ thân phận kẻ nô dịch thấp hèn lên hàng công dân mù, Nunez không tài nào chợp mắt ngủ, và suốt những giờ phút có ánh nắng ấm áp, trong lúc mọi người say ngủ ngon lành thì hắn bó gối ngồi suy nghĩ mông lung, hoặc thơ thẩn dạo lang thang, cố gắng dằn lòng để chịu đựng cái cảnh tiến thoái lưỡng nan này. Hắn đã trả lời cũng như hắn đã xác định sự ưng thuận nhưng thực ra hắn vẫn chưa biết mình muốn gì.  Và cuối cùng khi giờ làm việc đã mãn, mặt trời rực rỡ nhô lên trên các đỉnh núi huy hoàng, và ngày còn lại cuối cùng với đôi mắt lành lặn của Nunez bắt đầu. Hắn gặp Medina sarote mấy phút trước khi nàng đi ngủ riêng nơi khác.
            “Ngày mai”, hắn thốt,  “anh sẽ không bao giờ nhìn thấy gì nữa”.
            “Anh yêu của em!” nàng nói và nắm thật chặt lấy hai tay hắn.
            “Họ sẽ làm anh đau đớn nhưng không nhiều lắm đâu, và anh sẽ phải trải qua cơn đau đớn này, anh yêu qúy, anh hãy trải qua nó vì em... Anh ơi, nếu quả tim và cả cuộc đời của người con gái có thể làm những gì để đền đáp lại, em sẽ làm hết cho anh. Hỡi anh yêu qúy nhất của em, người anh yêu qúy nhất có giọng nói thật dịu dàng ơi, em sẽ đền bù lại cho anh tất cả”.
            Hắn đầm đìa nước mắt xót xa cho chính mình và cho cả nàng. Hắn ôm nàng trong vòng tay, áp môi hắn lên môi nàng và nhìn vào khuôn mặt dịu hiền của nàng một lần cuối: “Giã biệt em!” Hắn khẽ thì thầm: “Giã biệt em!”
            Rồi hắn lẳng lặng quay gót. Nàng có thể nghe rõ tiếng bước chân hắn đang xa dần, và nhận ra hình như có cái gì khác thường trong nhịp chân bước của hắn khiến nàng bật lên khóc nức nở.
            Hắn vốn định tìm một nơi thanh vắng, nơi mà cánh đồng cỏ xanh biếc điểm những cánh hoa thủy tiên trắng muốt, để ngồi chờ đến giờ lãnh nhận sự hy sinh, nhưng trong khi vừa bước đi, hắn ngước mắt nhìn lên trời và nhìn thấy cảnh bình minh, ánh bình minh như một thiên thần khoác chiếc áo bào rực rỡ đang đi dần xuống những vực sâu...
            Hắn hình như cảm nhận ra là đứng trước cảnh huy hoàng này của trời đất, hắn cùng cái xứ người mù trong thung lũng này, và tình yêu của hắn cũng như tất cả những gì nơi đây, chẳng qua cũng chỉ là một cái hố tội lỗi.
            Hắn không rẽ ngang như đã định mà lại tiếp tục đi thẳng và vượt qua khỏi bức tường vây quanh để đi đến chỗ những tảng đá, mắt luôn luôn dán vào những đám băng và tuyết rực rỡ dưới ánh nắng. Hắn ngây ngất trước cái đẹp vô tận, và óc tưởng tượng như bay bổng lên trên những viễn tượng mà từ nay hắn phải cam lòng vĩnh viễn từ bỏ.
            Hắn nghĩ đến cái thế giới tự do bao la mà ngày nào hắn đã từ đó ra đi, cái thế giới dành riêng cho hắn, rồi hắn thấy thấp thoáng hiện ra những sườn núi xa xăm, hết lớp này đến lớp khác, với Bogota, một nơi chốn đầy dẫy những vẻ đẹp quyến rũ, ngày thì nguy nga, đêm thì rực rỡ, với những đền đài dinh thự, những vòi phun nước, những pho tượng, những ngôi nhà sơn trắng nằm phô mình một cách tráng lệ ở giữa khoảng cách xa xăm kia. Hắn nghĩ làm cách nào một người có thể chỉ mất độ một ngày là có thể xuôi theo những hẻm núi, tiến càng lúc càng gần hơn nữa khu phố phường và những con đường nhộn nhịp của nơi chốn đó. Hắn nghĩ đến cuộc hành trình trên sông, ngày này qua ngày khác, từ Bogota rộng lớn đến cái thế giới còn rộng bao la hơn ở xa nữa, xuyên qua những làng mạc và thị trấn, núi rừng và những nơi chỉ là sa mạc, dòng sông chảy xiết ngày này qua ngày khác cho tới khi hai bờ sông lùi dần vào trong, và có những chiếc tầu thủy to lớn nhả khói rẽ sóng lướt đi, và thế là người ta đã ra đến biển - biển cả bất tận với hàng ngàn hải đảo, và những con tầu chỉ còn nhìn thấy mờ nhạt xa dần, tiếp tục cuộc hành trình xuôi ngược trong cái thế-giới rộng lớn ấy. Và ở đấy không bị núi non che khuất, người ta có thể nhìn rõ bầu trời, cái bầu trời không phải chỉ giống như cái đĩa mà người ta nhìn thấy ở đây, nhưng là một vòm xanh thăm thẳm vô cùng tận, một sự cao thăm thẳm với những chùm sao bồng bềnh.
            Hắn bắt đầu đưa mắt quan sát tỉ mỉ cái màn trùng điệp của rừng núi với một vẻ nghiên cứu kỹ hơn.
            Giả sử, nếu một kẻ nào đó cứ leo ngược cái rãnh kia để tới cái khe núi thì có thể đến chỗ rừng thông mọc bám quanh rìa cái hóc đá trên cao, và càng lúc càng lên cao tít tận mé trên khe núi. Thế rồi sao nữa? Cái sườn dốc đó có thể vượt được. Từ đó có thể tìm ra một lối nào đó để trèo lên cái vực bị vùi dưới tuyết, và nếu cái khe núi ấy không xuyên qua được thì cũng có thể có một cái khác nào đó ở xa hơn về phía đông có thể giúp hắn đạt mục đích. Và sau đó thì sao? Lúc đó người ta có thể thoát ra vùng tuyết ửng nắng hồng và đến được lưng chừng đỉnh của những rặng núi hoang vu tráng lệ kia. Và giả sử như người đó được may mắn!
            Hắn ngoái cổ nhìn lại ngôi làng, rồi xoay hẳn người lại khoanh tay nhìn nó. Hắn nghĩ đến Medina-sarote, và nàng đã trở nên bé nhỏ và xa xăm. Hắn lại quay nhìn vách núi, ánh sáng ban ngày từ trên đó chiếu xuống với hắn. Và thế là hắn bèn bắt đầu leo một cách hết sức thận trọng. Khi hoàng hôn đến, hắn không leo nữa, nhưng hắn đã vượt được một quãng xa và đang ở trên cao chót vót. Quần áo hắn rách tả tơi, chân tay rướm máu, mình mẩy nhiều chỗ bầm tím, hắn nằm vật ra đó nhưng vẫn ra chiều khoan khoái, một nụ cười điểm trên môi. Từ chỗ hắn nằm, cái thung lũng trông như chìm sâu trong một cái hố cách chừng một dặm bên dưới. Trời đã bắt đầu sẫm xuống vì sương giá và bóng tối, mặc dù những đỉnh núi xung quanh hắn vẫn là những vật rực sáng và ánh lửa. Những đỉnh núi xung quanh hắn là những vật rực sáng và ánh lửa, và những vật bé nhỏ nằm trong những phiến đá gần tầm tay của hắn tràn ngập ánh sáng và vẻ đẹp, một vân đá màu bích ngọc nổi bật lên trên mầu đá xám, đó đây lấp lánh những tia sáng thủy tinh, một cọng rêu nhỏ li ti màu cam thoáng hiện một cách tuyệt đẹp sát bên mặt hắn. Trong hẻm núi, bóng đêm sâu thẳm, huyền bí, từ mầu xanh sẫm dần sang mầu tím, và từ màu tím sẫm dần thành bóng đêm ngời sáng, và trên cao là cả một bầu trời bát ngát mênh mông. Nhưng hắn không còn quan tâm đến những điều này nữa, mà chỉ nằm yên đó bất động, mỉm cười như rất thỏa mãn vì đã thoát khỏi cái thung lũng của Người Mù mà đã có lần hắn ngỡ mình sẽ làm Vua.
            Và ánh hoàng hôn rực rỡ vụt tắt, màn đêm buông xuống, hắn vẫn nằm đó, dưới ánh sao sáng và lạnh.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

namkts57@gmail.com