Đồng xu
Khái Hưng
Rời bãi đá bóng, Phiên lang thang trên
đê, hai tay thọc túi chiếc áo dạ tím bạc màu và rách sờn cổ, mặc trùm ra ngoài
một bộ quần áo vải xanh, dính đầy dầu máy.
Từ sông thổi vào mũi chàng, vào miệng
chàng, vào cái dạ dày trống rỗng của chàng từng cơn gió lạnh phảng phất lẫn với
mùi phở thơm tho, ấp áp. Phiên mắt nhắm lim dim đứng rướn thẳng lên hít một hơi
mạnh và dài.
Một người to lớn vội vàng hấp tấp chạy vọt
lên đê, xô vào Phiên, làm chàng ngã, văng đôi guốc ra xa. Người ấy làu nhàu mấy
tiếng trong mồm, rồi nhún vai đi thẳng. Phiên cũng nhún vai đáp lại để tỏ khinh
bỉ.
Tiếng hò reo, tiếng vỗ tay hoan hô rầm rộ
ở phía sau lưng. Phiên nghĩ thầm: "Trời rét, đá bóng thế có đói chết
không?" Nhưng chàng mỉm cười nghĩ tiếp luôn "Hừ! mình cứ tưởng ai
cũng như mình, cũng nhịn đói như mình!" Phiên xuống đường, rẽ qua phố Hàng
Đậu.
Một người đi xe đạp, để tránh Phiên phải
lái vội xe đâm vào rìa hè.
- Mù à!
Phiên đáp lại câu mắng bằng cái nhún vai
lặng lẽ thứ hai, rồi cắm đầu đi thẳng.
Lanh lảnh có tiếng rao: "Hàng xôi
phán xa!" Bất giác Phiên thọc sâu tay xuống đáy túi, vân vê đồng xu, đồng
xu cuối cùng của chàng:
- Phán xa! Phán xa!
Người bán lạc chừng không nghe rõ tiếng
chàng gọi, tiếng gọi nhỏ nhẻ, yếu đuối. Lần thứ ba chàng nhún vai, tự nhủ thầm:
"Chậc! thôi, chẳng ăn nữa. Thà đói hẳn. Chứ ăn một xu lạc rang mặn chẳng
bõ chua mồm!"
Vẫn nắm đồng xu lạnh trong lay, chàng mỉm
một nụ cười sung sướng:
"Ừ, phải đấy! Ta tìm ăn cái gì chắc
dạ. Ăn lạc rang chỉ tổ đói thêm!"
Mùi chả nướng tạt mạnh vào mũi. Phiên dừng
lại quay nhìn vào trong hàng cơm: Những gói giò xanh, những chiếc chả tròn và
vàng, những đoạn lòng lợn treo lủng lẳng ở cái lao màn ngắn. Trên ghế dài, hai
người phu xe ngồi ăn cơm chan, và xì xụp, coi bộ ngon lành quá.
Phiên toan hỏi họ xem với một xu có thể
ăn được mấy bát cơm, thì một người quay ra nhớn nhác nhìn chàng:
- Thưa thầy đi xe? Tôi ăn xong đây ạ!
Rồi đứng dậy, và lùa và lụa. Phiên vội
đáp;
- Không.
Và hổ thẹn rảo bước. Đi một quãng xa
chàng mới kịp nghĩ: "Hừ, thầy với bà! Chỉ tối nay không có gì ăn là thầy lả,
bỏ xác thầy!. Bữa sáng hôm nay là bữa nhịn đói thứ ba của thầy rồi. ấy là chưa
kể hai bữa điểm tâm buổi sáng và một bữa năm giờ của dân Hồng Mao". Phiên
bật lên tiếng cười to.
Vì chàng nhớ lại những bữa trà đầy đủ của
một cặp vợ chồng giáo sĩ Hoa Kỳ. Ngày ấy, Phiên còn theo học trường Bảo hộ.
Chàng ở trọ nhà một ông ký ga, phố Nguyễn Trãi. Chiều thứ năm, chủ nhật đứng cửa
sổ trên gác, chàng tò mò nhìn xuống cái vườn bên giáo đường. Nắng vàng thêu
bóng lá cây trên tấm thảm cỏ xanh mới xén, trên cái khăn trắng muốt phủ kín
chân chiếc bàn vuông con, trên bộ y phục màu hồng và cái mũ rơm vành rộng của
người thiếu phụ. Thấy hơi nước ở chén bốc lên, chàng tưởng ngửi thấy hương trà
thơm ngát, và ngày nay nhớ tới những đĩa bánh ngọt, chàng còn chảy nước miếng.
"Người ta giàu có, sung sướng thật!".
Tới vườn hoa Hàng Đậu, thấy cái ghế dài
bỏ không, Phiên ngồi xuống, nghiêng thân thể mỏi mệt trên lưng tựa, dang hai
cánh tay ra thở một hơi thực dài, rồi lim dim mắt như thiu thiu ngủ. Cái đời ký
vãng lần lượt hiện ra, một quãng đời buồn lẫn vui.
Phiên lại trông thấy cảnh sa sút thiếu
thốn của cha mẹ, cảnh bơ vơ của mình. Không trả được tiền học, Phiên phải bỏ
trường, lang thang đi xin việc ở khắp các nơi. Một nhà ấn loát thuê chàng sửa
chữa bài in, lương mười đồng một tháng. Phiên ăn cơm trọ hết bốn đồng, để ra
hai đồng tiêu vặt vãnh, và góp tiền may quần áo, còn bốn đồng chàng gửi về giúp
cha mẹ.
Phiên làm mới được hơn một năm thì cha
chết. Phiên xin phép chủ về tống táng cha, nhưng bị ốm nặng, chàng nghỉ quá
phép mất một tuần lễ. Hôm chàng ra Hà Nội thì ông chủ nhà in đã tìm người khác
kế chân, và dặn chàng hãy đợi khi nào có việc sẽ lại mướn.
Trong túi còn hơn đồng bạc, Phiên ở lại
chờ, nhưng nhà trọ bắt mỗi tuần phải trả trước một đồng, thành thử sau bảy
ngày, hết tiền ăn, chàng bị bà chủ trọ mời ra ngoài đường một cách quả quyết và
tàn nhẫn, vì bà ta biết rằng chàng đã mất việc.
Thế là từ sáng hôm qua, với một xu còn
dính túi, Phiên đi lang thang trên dìa hè các phố.
"Một
đồng xu! Hừ ta có một cái tài sản nhỏ nhất thế giới! Kỷ lục ấy khó lòng ai phá
nổi. Đến những người ăn mày cũng còn giầu hơn ta!"
Vừa nghĩ Phiên vừa cầm đồng xu tung trên
bàn tay. Bỗng đồng xu rơi lăn vào gầm ghế. Phiên cúi tìm mãi mới thấy:
"Trời ơi! tý nữa mất!" Chàng vừa
lóp ngóp ngồi xuống thì một người què chống nạng nhảy đến chìa tay xin. Phiên mỉm
cười chua chát, nói:
- Tôi không có đâu, bác ạ.
Rồi ngượng với người tàn tật, - vì biết
người ấy đã nhìn thấy mình nhặt đồng xu, - Phiên đứng dậy đi thẳng, vừa rảo bước
vừa quài cổ lại nhìn người hành khất đứng nói làu nhàu. Phiên phì cười nghĩ thầm:
"Chắc bác ta đương nguyền rủa mình,
vì bác ta cho mình là một thằng keo bẩn!"
ý
nghĩ ấy tự nhiên làm Phiên vui sướng, cất tiếng hát bài ca mà chàng thường nghe
trẻ con và cả các anh kéo xe nhà huýt còi theo điệu:
La Chine est bien monotone, dit-on
frequemment...
- Anh Phiên thích chí điều gì mà hát
nghêu ngao thế?
Phiên quay lại. Một người đi xe đạp vụt
qua, Phiên chỉ kịp nhận ra đó là người chạy giấy ở nhà in mình làm việc trước.
Chàng toan gọi lại để dựt dăm xu ăn bữa chiều, nhưng chiếc xe đạp đã bon bon chạy
một quãng xa. Chàng đành nhún vai tiến bước. Nhún vai hình như là cử chỉ cố định
của Phiên để đáp lại hết mọi điều không thể trả lời được bằng tiếng nói, bằng ý
nghĩ.
Nhưng người chạy giấy làm Phiên chợt nhớ
đến ông chủ nhà in. Chàng đi thẳng tới xưởng, tuy biết chắc rằng thế nào ông chủ
cũng trả lời như mọi lần trước, nghĩa là "Chưa có việc, hãy chờ, mà nếu
không chờ được thì đi tìm việc ở nơi khác."
Câu trả lời ấy quả thực Phiên được nghe
lần chẳng biết thứ mấy, khiến chàng không giữ được cái cười nửa miệng, vì vừa
nhách môi ra, Phiên sợ hãi cố nghiêm ngay nét mặt lại.
Thấy Phiên vơ vẩn đứng ngó vào trong xưởng,
người chủ chau mày gắt:
- Đi chứ còn đứng đấy làm gì?
Phiên toan liều xin vài hào, nhưng ngượng
quá không nói ra câu. Người chủ quát luôn:
- Đi ngay! Hay anh định rủ thợ đình công
thì anh bảo?
Phiên nuốt một tiếng thở dài, cúi chào
quay ra.
Đến một tòa nhà nguy nga, Phiên dừng gót
ngoài hàng rào sắt đứng tò mò nhìn vào trong vườn. Những chậu sứ, đôn sứ, thống
sứ men xanh, men ngũ sắc bày la liệt kín cả một khoảng sân, dưới cái giàn gỗ có
hoa hồng leo. Phiên tự nhủ thầm: "Một cái thống kia cũng đủ nuôi sống mình
được một năm", tuy chàng chẳng rõ giá tiền một cái thống giang tây là bao
nhiêu tiền.
Một
cái lều vây lưới thép, chứa rất nhiều các giống chim bay lượn. Trên lối đi lát
gạch khía, hai con công xòe đuôi múa.
Trong bếp, lửa cháy hồng tươi. Bên chái
bếp, một cái chuồng chim bồ câu. Hai con chim non thò đầu ra cửa chiêm chiếp
kêu đòi ăn. Con mẹ từ mái nhà bay vụt xuống. Hai con kia chui ra ngoài, đôi
cánh yếu rung rung đập, tức thì con mẹ lần lượt mớm cho.
Ngắm hai con chim non béo mũm mĩm, ninh
ních những thịt, Phiên tưởng ngay đến những nồi cháo thơm thường được ăn khi
nhà còn sung túc.
Giữa lúc ấy, tiếng bà chủ thét đầy tớ từ
trên gác ném xuống. Phiên nhận thấy giọng cay nghiệt, tàn ác: "Hừ! giàu thế
này mà vị tất đã... đáng sống!" Vừa nghĩ đoạn Phiên cho câu tư tưởng của
mình hoàn toàn vô nghĩa, và chàng bật lên tiếng cười to: "Chả biết mình có
đáng sống không, nhưng sự thực thì hiện giờ mình chẳng sống một tị nào!"
Phiên cười mãi rồi bỗng cảm thấy mình sung
sướng, chàng để luồng tư tưởng vẩn vơ của chàng cứ theo đà tuôn ra: "ừ!
sao mình lại không sống? Mình sống lắm chứ! Không những mình sống, mà mình còn
sống sung sướng bằng mấy cái bà có giọng the thé ở trên gác kia... Đây này, bằng
cớ đây này!"
Phiên móc túi lấy đồng xu cầm ở tay nghĩ
tiếp: "Đây này, cái bằng cớ rằng mình sung sướng hơn, giàu có hơn bà ta nữa,
là mình có thể cho bà ta đồng xu cuối cùng của mình. Này cho!"
Qua đôi cánh cổng hé mở, Phiên thia lia
đồng xu vào trong sân và lên tiếng:
- Cho đấy! Chốc nữa xuống thăm vườn cảnh
tìm thấy lại không sướng mê tơi! Hừ! có biết đâu rằng đồng xu ấy là cả một tài
sản của một... một thư sinh giàu tư tưởng, giàu lòng từ thiện.
Khoái trá về cái cử chỉ anh hùng và phi
thường của mình, Phiên thọc tay vào túi đi nghênh ngang, miệng se sẽ huýt còi.
Nhưng vừa đi được mươi bước, chàng nghĩ ngay đến cái cử chỉ điên rồ: "Ô
hay! sao mình lại ngông cuồng thế nhỉ? Một đồng xu! sao mình lại phí của thế?"
Rồi Phiên quay lại để nhặt.
Vịn cổng, Phiên rụt rè đứng nhìn. Không
một ai qua lại, Phiên chặc lưỡi, liền bước vào, lom khom cúi tìm...
Phiên đương bê cái chậu sứ lên để xem đồng
xu có văng vào gầm không, thì một người ở trong bếp đi ra rón rén đến gần, túm
chặt lấy cổ áo:
- Mày vào ăn cắp phải không?
Phiên đứng thẳng người lên ấp úng:
- Không mà, tôi tìm đồng xu.
- Đồng xu nào lại rơi ở đây?
- Đồng xu của tôi.
- Đồng xu của mày?
- Phải, đồng xu tôi ném vào.
Người kia phì cười:
- Đồng xu mày ném vào?
Lúc ấy, cả bọn người nhà kéo ùa ra xúm
xít quanh mình Phiên. Bà chủ đứng trên bao lơn thét hỏi:
- Cái gì thế, chúng mày?
- Bẩm bà, một thằng ăn trộm, con vừa bắt
được một thằng toan bê cái chậu sứ.
- Thế à? Điệu cổ nó lên bóp cho tao!
Đánh chết đi!...
Phiên có phân trần, nhưng mỗi lời chàng
nói, người ta chỉ đáp lại bằng một cái tát, hay một quả đấm. Về sau chàng đành
đứng im để mặc cho người ta trói và điệu lên sở cảnh sát.
*
* *
Tối hôm ấy, Phiên được ăn bữa cơm đầu
tiên, sau hai ngày nhịn đói, bữa cơm tù. Chàng vui vẻ nghĩ thầm:
"Thế mới biết công dụng của đồng xu
to thực!"
Rút từ tập truyện ngắn Đợi chờ.
Nxb Đời nay, Hà Nội, 1940.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
namkts57@gmail.com