Buổi Sớm Mai
Nguyễn Khải
Tháng
tư năm 96.
1. Viết về những năm tháng đã lùi xa vào
dĩ vãng là nhớ lắm, buồn lắm. Nhớ một thời trai trẻ đã qua, những bồn chồn lo lắng,
những thắc thỏm mong đợi, nhiều hy vọng và cũng nhiều e ngại nay đã thuộc về một
quá khứ đã bắt đầu nhòe lẫn. Ông Tạo cũng trớ trêu, rất nhiều chục năm cứ tưởng
ngày vui nhất còn ở phía trước nào ngờ ngày vui luôn luôn là ngày hôm nay, vào
đúng lúc mà ta đang ruồng bỏ nó không chút nuối tiếc. Những năm tháng vui, có ý
nghĩa tích cực của một đời người, là cái cõi, cái hồn của một đời người bao giờ
cũng là những năm tháng tìm kiếm một lối đi cho riêng mình với bao nhiêu là thơ
dại, lầm lẫn, đau đớn. Là những năm tháng đang leo lên, trượt ngã lại lập tức
bám víu trèo lên tiếp, ăn rất ít, ngủ cũng rất ít, nước mắt chứa chan nhưng vẫn
không tắt nụ cười vì thời gian còn dài sức lực còn nhiều, đầu óc chất chứa bao
nhiêu là dự kiến, thật có hư có, hư nhiều hơn thật nhưng chính nó là những sợi
vàng sợi bạc dệt nên những mộng ảo lấp lánh của lứa tuổi hoa niên. Còn khi cái
đích nhắm tới đã đạt thì trước mắt lại là một con đường lớn hơn, nơi đang đứng
chỉ là đoạn cuối của một con hẻm hẹp. Nhưng than ôi, thời gian để bước tiếp
không còn bao lâu nữa, cái vực hư vô đã thấp thoáng dưới chân rồi.
2.
Năm 1949 tôi mới 19 tuổi, là phóng viên tờ báo Dân Quân Hưng Yên, mỗi lần có được
tờ báo Quân Bạch Đằng của Liên khu 3 tôi đọc không sót một dòng, chữ nghĩa như
có phép thiêng, ám ảnh mình từ cái chấm cái phẩy. Tôi đọc thơ Yên Thao từ ngày ấy.
Mấy năm được làm náo Quân khu mỗi lần chúng tôi được tiếp các phóng viên của
báo Quân đội nhân dân về đồng bằng công tác, vừa mừng vừa sợ giống hệt các tiểu
quỉ ở gò ở đống được thưa chuyện với các bậc thượng tiên từ rừng núi Việt Bắc hạ
phàm. Và đêm ngày mong đợi cái cơ hội may mắn được gọi nhập vào cái thế giới vừa
sang trọng vừa vui vẻ, từ sáng đến tối chỉ bàn có mỗi chuyện văn chương.
Thoạt
đầu báo của Quân khu có mười người, có thư ký toà soạn, có phóng viên, có hoạ
sĩ và một cậu khắc gỗ. Về sau người cứ thưa dần, tới thời tôi làm thư ký toà soạn
thì báo chỉ còn lại vài người, báo ra tháng có tháng không, một mình tôi viết
xã luận, viết tin tức, viết mẫu chuyện, thỉnh thoảng mới nhận được bài của anh
Bùi Biên Thuỳ, anh Hoài Giao mừng rở như bắt được vàng, còn thì vắng lặng quá,
buồn tẻ quá. Trời rét cả toà soạn nằm ông lấy nhau mới được một phần ba cái sạp
nứa của cái lán hẹp. Rồi sốt rét, dứt cơn sốt, miệng đắng ngắt, người hôi sì,
nghĩ thèm đủ thứ, nhưng thèm nhất vẫn là được làm nghề, được sống với những người
cùng nghề, chỉ bàn có chuyện nghệ. Và luôn luôn ao ước có ngày được khoác bị
chân đất hành hương lên Việt Bắc. Mãi đến giữa tháng 8 năm 55, sau ngày đình
chiến, kết thúc cuộc chiến chống Pháp đúng một năm, tôi mới được Phòng Văn nghệ
gọi về Hà nội viết truyện anh hùng. Đây là đi công tác, đi rồi về chứ không phải
là thuyên chuyển công tác, đi rồi ở hẳn. Thôi được, cứ biết là được về Tổng cục
mấy tháng, lên đó sẽ tính, biết đâu được trên yêu mà cho ở lại.
Tôi
được về Tổng cục Chính trị, được về Hà nội như đang ở ao ngòi được ra sông cái,
đầm lớn, việc gì cũng lạ, chuyện nào cũng vui. Hàng ngày tôi đều được cùng ngồi
ăn, cùng trò chuyện với anh các Thanh Tịnh, Đỗ Nhuận, Lương Ngọc Trác, Xuân Miễn,
Bích Lâm, Vũ Tú Nam, Từ Bích Hoàng, Vũ Cao, Mai Văn Hiến, Doãn Trung, Hà Mậu
Nhai, Nguyễn Thuỵ ứng, Ngọc Tự... Cùng lên Tổng cục với tôi đợt ấy có các anh:
Hồ Phương, Nguyên Ngọc, Nguyễn Khắc Thứ, Trần Cẩn, Mạc Phi, Vũ Sắc, Xuân Thiêm,
Nguyễn Trọng Oánh, Lý Đăng Cao, Xuân Vũ, Minh Giang, Phác Văn. Ít lâu sau có
thêm các anh: Hữu Mai, Hải Hồ, Ngô Thông, Nguyễn Ngọc Tấn. Rồi các anh Hoàng Cầm,
Hoàng yến, Phùng Quán, Tạ Hữu Thiện. Và ông Trần Dần. Ngày ấy hình như chỉ có
tôi và anh Nguyên Ngọc là ngơ ngác hơn cả, vì chúng tôi là lính quân khu, lính
địa phương. Còn các anh khác là lính chủ lực, lính các đại đoàn, họ thường gặp
nhau, cùng làm việc với nhau mỗi lần Bộ Tổng mở chiến dịch lớn. Họ là bạn của
nhau, xưng hô với nhau là ông tôi, cậu tớ, gọi nhau là thằng này thằng nọ. Còn
tôi thì khác. Ai cũng đáng mặt đàn anh mình cả. Kể cả Phùng Quán tuy kém tuổi
tôi nhưng là người đang nổi tiếng, người thành đạt, văn thơ nức tiếng đất kinh
kỳ vừa được giải phóng. Cũng là lính viết văn thơ, nhưng lính dưới đơn vị khác,
lính trên Tổng cục Chính trị khác. Các anh trên Tổng cục đọc nhiều, biết rộng,
nói năng viết lách thuộc tầm cỡ quốc gia. Còn mình? thôi chả cần phải nói, chỉ
là anh bộ đội hồn nhiên, thơ ngây, nghĩ ngắn, viết hẹp, có nói đủa cũng không
biết cách. Nên gặp nhau vẫn chào hỏi nhưng không ngồi lâu với nhau được vì chả
có gì để nói. Hình như những người nổi tiếng đã từng ăn ở với nhau suốt thời
đánh Pháp cũng không được vui vẻ với nhau cho lắm thì phải. Có nhóm này và nhóm
kia và những người chạy qua chạy lại cả hai nhóm vì cộc tranh luận các quan điểm
trong văn nghệ đã bắt đầu. Anh Văn Phác và anh Vũ Tú Nam là trưởng phòng và phó
phòng Văn nghệ quân đội đã tổ chức nói chuyện mấy lần với anh em mới lên công
tác. Nghe thì nghe nhưng tôi chả quan tâm bao nhiêu. Đảng lãnh đạo văn nghệ là
tất nhiên rồi. Văn nghệ trong quân đội phải phục vụ các nhiệm vụ chính trị của
quân đội, của nhà nước cũng là rất tự nhiên. Chả lẽ lại có thể nghĩ khác, làm
khác sao? Với tôi được lên Tổng cục, được về Hà nội đã là toại nguyện lắm, chả
còn gì phải thắc mắc. Họ thì ưu tư, buồn bã, mình thì hò hét, cười cợt, xem ra
các ông anh cũng có ý khinh bọn tôi ít nhiều thì phải. Một đám trẻ con nhốn
nháo, vô tư như thế thì viết văn làm thơ thế nào được! Việc gì cũng có thời có
lúc của nó, cái phải đến rồi sẽ đến bao giờ là việc của mình, mình sẽ có cách ứng
xử thích hợp, lo trước, tính trước, tranh luận làm gì, mất công. Bây giờ nghĩ lại
tôi vẫm thèm vẫn tiếc mấy năm vô tư, hồn nhiên của buổi đầu vào nghề, buổi đầu
được chính thức làm nghề. Sau ba tháng trại viết truyện anh hùng các lực lượng
vũ trang kết thúc. Tôi cũng đã viết xong truyện nữ anh hùng Mạc Thị Bưởi, Bây
giờ nhiều anh có ý trách tôi hay tâng bốc những cây bút trẻ, hô hoán rầm rĩ cứ
như đã phát hiện được thiên tài. Sự tâng tốc ấy có cái lý riêng của nó. Chả là
lúc bắt đầu tôi viết quá dở. Bây giờ những cây bút trẻ không ai viết dở như tôi
cả. Lấy mình so với người lúa bắt đầu thế là tôi hô hoán ầm lên vì mừng quá, lạ
quá, tài quá. Năm tôi viết Mạc Thị Bưởi, tuổi tôi đã 26, còn trẻ gì nữa. Trần
Đăng Khoa viết trường ca Mạc Thị Bưởi năm cậu ta mới mười mấy tuổi hãy còn trẻ
con. Một người đã trưởng thành mà văn chương như trẻ con, còn một cậu bé con
văn chương đã mênh mông bay lượn. Cho nên tôi luôn luôn sửng sốt, kinh ngạc và
thích hô hoán trước những cái tài, dầu là tài nhõ và chỉ lóe lên trong bất chợt
vì mình thiếu nó, ngày đêm thèm khát nó.
Sau
trại viết tôi là một trong mấy người được Phòng Văn nghệ giữ lại làm phóng viên
cho tờ Sinh hoạt Văn nghệ. Tôi được giữ lại không phải vì tôi có tài mà vì tôi
sống đúng điều lệnh, là một sĩ quan quân đội trăm phần trăm, chưa bị nhiễm những
chứng tật của giới nghệ sĩ. Khốn nỗi một người tốt nhưng bất tài cũng khiến cơ
quan rất khó xử, nhất là một cơ quan báo chí. Đuổi anh ta đi thì không nỡ mà giữ
lại thì biết dùng vào việc gì? Hai lần tôi đi công tác để viết bài đều hỏng.
Anh Từ Bích Hoàng sợ tôi buồn, ai ủi tôi không nên nản chí. Tôi trả lời là tôi
không buồn, cũng không nản chí, tôi sẽ cố gắng hết sức mình. Viết văn mà lại hứa
“sẽ cố gắng” thì còn biết nói sao? Lại không biết buồn, vẫn hăng hái đi tiếp,
viết tiếp khiến cả mọi người đâm bối rối. Các anh ở toà soạn nhìn tôi rất ngượng,
như người có lỗi. Nhưng tôi chả ngượng một tí nào vì tôi đã xem những năm này
là tôi đang học nghề. Được học nghề với các bậc đàn anh của nghề còn gì may mắn
hơn. Nên vẫn rất vui. Nhưng toà soạn thì không thể vui. Họ đang cần người làm
báo chứ không cần người học việc. Nên khi các anh phụ trách yêu cầu tôi về tổ bạn
đọc tôi nhận lời ngay. Làm gì cũng được miễn là không phải trở về quân khu. Về
quân khu thì tôi mất nghề. Tổ bạn đọc năm ấy kiêm cả đọc loại vòng đầu. Không
may cho tôi, tôi đã loại một truyện ngắn của Vinh Tú không đưa ban biên tập đọc
vì tôi chưa biết anh ấy là ai. Có biết đâu Vinh Tú ngày ấy được báo trân trọng,
nâng niu như Phạm Tiến Duật, như Đỗ Chu mười năm sau này. Rồi tôi lại viết thư
trả lời nhiều bạn viết khác, góp ý này ý nọ tưởng đâu như tôi vẫn là thư ký toà
soạn một tờ báo của quân khu góp ý với bạn viết của báo mình. Nên các anh ấy phải
hỏi lại toà soạn tôi là ai, đã viết được những gì, sự góp ý ấy là của tập thể
toà soạn hay của cá nhân? Chắc là anh Từ Bích Hoàng phải viết thư xin lỗi hoặc
có lời nói lại nhiều lần nhưng anh không nói với ai về chuyện này nên tôi không
biết. Là người trong biên chế của báo mà làm biên tập không được, làm phóng
viên không được, làm tổ bạn đọc cũng không xong thì còn biết làm gì? Tôi đã tự
nguyện xin giúp việc hành chính củabáo một thời gian, để có dịp ngẫm nghĩ về
mình, hoặc là vẫn ở lại Hà nội tiếp tục học nghề, hoặc xin trở lại quân khu vừa
làm báo làm tuyên huấn, thỉnh thoảng gửi bài lên trung ương, như thế chả hay
hơn ư? Ban ngày tôi làm việc hành chính, tối đến tôi không đi chơi đâu cả,
không đàn đúm với ai cả, đến phòng làm việc của cơ quan mượn cả đống sách, chủ
yếu là sách Pháp, rồi tuần báo Văn học Pháp so Aragon chủ biên và tạp chí hàng
tháng Văn học Xô-viết, đọc thì đọc chứ cũng chả hiểu gì mấy. Chữ khó thì tra từ
điển, ý tưởng khó thì hỏi lại các ông anh, rồi cứ vỡ vạc dần, những bí mật của
sáng tạo nghệ thuật cũng hé lộ dần và tôi đã lờ mờ nhận ra những cách thẩm thấu
khác nhau từ cuộc đời, có khi rất nhạt của nhà văn, thành những trang viết say
đắm của họ. Rồi tôi tìm đọc lại nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn, phóng sự của
các tác giả Việt nam trước cách mạng với con mắt xoi mói của người học nghề, đã
có biết chút ít cái then máy của nghề, nhận ra cái mạnh và cái yếu từng tác giả,
cái hay và cái dở của từng câu văn, của từng chương sách. Non chục năm về trước
tôi đã viết theo bản năng, cái bản năng của người không có văn tài bẩm sinh nên
rất tầm thường, ngô nghê, nông nổi. Tôi tự hứa từ nay tôi sẽ viết bằng sự chuẩn
bị, trời không cho mình thì phải tự cho lấy mình. Không phải chuẩn bị lúc thai
nghén tác phẩm mà phải chuẩn bị từ trước đó, từ rất lâu trước khi đặt bút lên
trang giấy, chuẩn bị từ gốc. Trước hết phải thay đổi cách sống, thay đổi cảm
nghĩ, thay đổi tư duy, triệt phá mọi ngăn cách để cái thế giứi đầy màu sắc của
xã hội và thiên nhiên thấm thẳng vào mình không bị lọc qua bất cứ một khuôn
nhìn nào, một định kiến nào. Nói thế chứ khó. Con người ta chỉ là một thành
viên của một cộng đồng, chịu sự chi phối của những tiêu chuẩn giá trị và đạo đức
của cộng đồng. Những tiêu chuẩn ấy đều có tính lịch sử, tính thời gian của nó,
không thể là vĩnh viễn. Nhưng viết ngược lại sẽ rất khó được những người cùng
thời gian tán thưởng. Thôi, đó là chuyện sau, chứ ngày ấy được biết đến thế
cũng là hơn thời còn đánh Pháp nhiều lắm.
Tháng
10 năm 56 tôi xin phép toà soạn được “hạ sơn” một chuyến, có thể là chuyến sau
cùng, thử xem với pháp thuật mới có thể chế ngự được các đối tượng phản ánh
thành những trang văn đọc được không? Tôi về hai huyện Kiến Xương và Tiền Hải của
Thái Bình, trong ba lô ngoài quần áo chăn màn còn mang theo Tuyến tập truyện ngắn
của Gorki bằng tiếng Pháp. Tôi về thôn Nam Huân thuộc Kiến Xương, viết một loạt
truyện nhắn, mỗi truyện khoảng 2.000 chữ. Rồi tôi về Hữu Vi là ột thôn công
giáo thuộc Tiền Hải. Và viết một truyện ngắn, truyện đầu tiên được đăng ở tạp
chí Văn nghệ quân đội, bộ mới, được phát hành rộng rãi chứ không chỉ lưu hành nội
bộ như ờ Sinh hoạt Văn nghệ. Truyện đó có tên là:
- Nằm vạ.
Anh
Thanh Tịnh bảo tôi:
-
Truyện đó Khải viết được đấy, đã có giọng riêng rồi đấy.
Mới
viết có một truyện mà đã có được giọng riêng rồi sao? Tôi chưa biết nhưng đàn
anh trong nghề đã nhận ra và có lời khuyến khích. Một lời khuyên, một lời khen
hoặc chê đúng lúc quả thật có ý nghĩa sống chết đối với một đời văn.
3.
Năm 92, tức 36 năm sau, tôi mới trở về Tiền Hải lần thứ hai. Hỏi anh em có phải
thôn Hữu Vi nằm sát mép biển không? Nhiều anh khoảng tuổi bốn mươi bảo không biết,
hình như xưa kia là thế chứ từ năm lớn lên thì Hữu Vi đã nằm sâu trong đất liền
rồi. Cây đèn biển còn nằm sâu ở một xã phía trong đồng huống hồ thôn Hữu Vi!
Nghe mà bâng khuâng quá, buồn bã quá. Chả lẽ mình đã thành đất ruộng, đất cũ với
những tên xã thôn mới, với trụ sở Uỷ ban, trường học, trạm xá, các sân phơi của
hợp tác xã nông nghiệp. Và tất cả đang sắp sửa đập phá hết vì nó đã cũ quá, xấu
quá để xây dựng những công trình mới đẹp hơn, văn minh hơn phù hợp với các cơ cấu
kinh tế và xã hội của hôm nay. Mỗi lần Hà nội nằm lại ít ngày ở cơ quan cũ đường
Lý Nam Đế, gặp lại bạn bè thân thiết một đời, cười thì cười, đùa thì đùa nhưng
trong lòng hết sức thương cảm. Bạn cũng đã già quá, tóc bạc cả, răng rụng cả,
đi đứng lòng khòng, là ông nội ông ngoại của những gia đình đông đảo. Mà hồi
tôi mới về cái nhà này đến quá nửa trong bọn tôi đều chưa có vợ. Những người được
già đi cùng với tờ báo đã trở thành một diễn đàn văn học có uy tín của cả nước,
là những người hết sức may mắn. Nói gì thì nói, mỗi chúng tôi ít nhiều đều đã
hoàn tất được phần việc của mình, vượt quá những mong đợi khi còn là đám lính
tráng làm báo nghiệp dư ở quân khu, ở đại đoàn. Chỉ tiếc cho những anh đi trước,
tài năng lớn hơn, được chuẩn bị vào nghề tốt hơn nhưng lại hy sinh khi còn trẻ
như Thâm Tân, như Trần Đăng. Và những bạn cùng lứa tuổi, tài lực đều hơn mình
đã hy sinh ở chiến trường hoặc mất vì bệnh hiểm nghèo vào lúc tuổi nghề vừa
chín như Nguyễn Thi, Nguyễn Minh Châu. Nên văn học hiện đại Việt nam thiếu vắng
những trang viết của bọn họ những năm này và lạ để làm nên những kiệt tác.
Nhưng ở đời không có sự mất mát nào không được đền bù, mọi khoảng trống sẽ được
lấp bằng bởi sự phát triển tự nhiên của đời sống. Đời sống văn học cũng thế. Tất
nhiên sẽ chậm hơn một chút, sẽ vòng vèo hơn một chút. Không phải nói suông đâu.
Thử đọc lại những truyện ngắn được giải thưởng của Tạp chí Văn nghệ quân đội
năm 94 mà xem, tài nghệ của những cây bút trẻ hôm nay đã đem lại cho bạn đọc rất
nhiều hy vọng, rất nhiều tin tưởng. Mình là người của một thời, một thời rất
oanh liệt nhưng còn thơ ngây lắm, còn non dại lắm. Họ lại là người của một thời,
rất bề bộn, rất ngổn ngang nhưng những người gánh vác dầu còn nhỏ tuổi đã có
cái phong độ của kẻ lịch lãm, từng trải. Thời nào cũng có cái đạo của nó, có
văn có nhạc của nó phù hợp với từng giai đoạn phát triển của quốc gia, của dân
tộc. Nên tôi rất tin tạp chí Văn nghệ quân đội vào những năm cuối thế kỷ sẽ lại
có một thời hoạt động sôi nổi với những văn tài mới. Và văn thơ của anh em ở số
4 Lý Nam Đế vẫn sẽ tiếp tục được thiên hạ yêu mến và nể trọng.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
namkts57@gmail.com