Con Rắn Ri Voi
Sơn Nam
Một buổi trưa, vào năm 1937, chú biện
Tống đang đánh tứ sắc cầu vui với vài người bạn, chợt nghe tiếng canô chạy ầm ầm,
ngày càng gần. Chú biện giựt mình, buông tay bài, nheo mắt:
-
À! Ông cò Lơ Hia lùng bắt chuyện gì đó...
Một
người đưa ý kiến:
-
Chẳng lẽ ông cò bắt bọn mình. Chú biện quen thân với ổng mà?
Biện
Tống lắc đầu:
-
Ông Lơ Hia lợi hại lắm. Tôi làm biện làng, tức là làm thơ ký cho thầy xã trưởng
vậy thôi. Bất cứ giờ phút nào tôi cũng có thể mất chức, bà con dư biết: lương bổng
của tôi có bảy đồng năm cắc. Mấy người giăng câu, bắt cua hàng tháng huê lợi
nhiều hơn tôi.
-
Nhưng mà thầy được ngồi trong mát, khỏi dầm sương dãi nắng. hễ cúng đình thì thầy
ngồi gần mâm của mấy ông hương chức hội tề.
Tiếng
máy canô im bặt. Cả bọn ngơ ngác. Ông cò Lơ Hia mặc quần áo kaki và đội kết
trông oai vệ làm sao: dấu hiệu trái lựu đạn đặc biệt dành cho ngành cảnh sát thời
Pháp thuộc... chói ngời màu bạc. Theo sau ông cò là một người mặc quần áo xá xẩu
bằng lụa trắng.
Chú
biện Tống thủ lệ, chắp tay xá theo phong tục An Nam , nhưng ông cò lơ Hia đã
vui cười, đưa tay bông rua:
-
Rảnh chưa? Chú biện. Dường như chú đánh bài tứ sắc với mấy người kia hả?
-
Dạ, đâu có...,
-
Ðừng chối. Dòm bộ tịch của mấy người tôi đủ biết. Từ xưa tới giờ, tôi bắt
hơn... ngàn vụ cờ bạc rồi. Lần này là vụ thứ một ngàn lẻ một.
Biện
Tống nài nỉ:
-
Xin quan lớn thương dùm.
-
Nếu không thương thì nãy giờ chú biện phải bị còng rồi. Còng rồi đem xuống
canô, đem về nhốt tại khám đường ở chợ Ngã Năm. Bây giờ, chú biện theo tôi, khỏi
còng. Chú là người ốm yếu, còng tay làm chi thêm vô ích.
Nói
xong, ông cò Lơ Hia khoát tay, ra lịnh giải tán đám người hiếu kỳ đang dụm năm,
dụm bảy từ phía xa xa. Thật là hồn phi phách tán. Chú biện Tống riu ríu bước
theo ông cò. Người Huê kiều nói tiếng Việt khá rành:
-
Ðừng sợ. Ðừng sợ. Thầy Hai đừng sợ. Thầy Hai làm việc ở xóm này lâu mau rồi?
Biện
Tống liếc qua ông cò Lơ Hia như để xin phép trả lời. Là người am hiểu chút ít
việc quan việc làng, biện Tống đã thuộc làu nguyên tắc: khi bị bắt thì tội nhơn
chẳng được quyền nói chuyện với kẻ khác, nhứt là khi quan trên chưa lấy khẩu
cung.
Ðến
bờ kinh xáng, ông cò Lơ Hia nói nhanh:
-
Chú biện gặp dịp may rồi đó. Tôi làm bộ như vậy để dân làng đừng nghi kỵ. Thôi,
chú cứ xuống canô uống rượu chát, bàn chuyện riêng với người này, ông Xìn Phóc,
làm má chín giàu có lắm, ở Sanh Ca Bo mới qua.
Xuống
canô, biện Tống mừng rỡ vì thoát nạn. Nhưng mấy tiếngmá chín, Sanh Ca Bo mơ hồ
quá. Bấy lâu nay, biện Tống ăn học rồi giao thiệp lẩn quẩn với những người làm
ăn bậc trung ở chọ Gò Quao mà thôi. Người tên là Xìn Phóc tỏ bặt thiệp, vui vẻ.
Ông ta mở cặp da - thứ cặp da hơi lạ - đem ra tấm danh thiếp:
-
Thầy Hai uống rượu đi. Làm quen với thầy Hai, tôi mừng lắm.
Trong
khi hai người đàm đạo với nhau, ông cò Lơ Hia ra sau lái canô ngắm cảnh rồi đem
máy ảnh ra mà bấm. Xìn Phóc mới giải thích rõ ràng hai tiếngmá chín. Biện Tống
tỏ vẻ... lanh lợi, nói mơ hồ:
-
Vậy mà tôi tưởng má chín là kẻ làm công hạng sang trọng, bạn thân của chủ tiệm
hoặc có phần hùn trong công ty nào đó.
-
Má chín, đúng ra là người mại bản, tiếng Tây kêu bằng cơm ra đo. Tôi làm cơm ra
đo cho hãng buôn lớn nhứt ở Sanh Ca Bo, thuộc về miền Hạ Châu. Hãng này giàu bạc
triệu chớ đâu phải ít. Phen này, nếu chịu hợp tác làm ăn với tôi thì thầy Hai lời
bạc ngàn...
“Làm
ăn” chuyện gì đây? Biện Tống chợt nghĩ đến những giai thoại về buôn lậu quốc tế,
bọn ăn cướp biển ở vịnh Xiêm La. Xóm này, ai nấy kiếm đủ cơm gạo qua ngày, tư bề
là vườn rậm, nước mặn đồng chua. “Hay là Xìn Phóc muốn tổ chức gián điệp quốc tế?
Ông cò Lơ Hia đưa hắn đến để gài bẫy mình chăng?” Biện Tống thở dài:
-
Cám ơn má chín. Tôi dở lắm. Xóm này đâu có huê lợi gì. Dân chúng lo đặt lương,
bắt rùa, bắt rắn...
Xìn
Phóc gật đầu:
-
Ông cò chỉ dạy tôi điều đó. Tôi tới đây, sau khi hiểu rõ tình hình. Nhưng còn
chuyện nầy... nhỏ xíu thôi, tôi muốn nhờ thầy Hai giúp sức. Tôi ở lại đây với
thầy Hai, bàn tính sau.
Ông
cò Lơ Hia nhìn đồng hồ, nói nhanh:
-
Ðủ rồi. Má chín với biện Tống quen biết rồi hả? Nầy chú biện Tống.
-
Dạ quan lớn dạy điều chi?
-
Dịp may hiếm có. Nếu má chín bị cướp bóc, bắt cóc thì chú hoàn toàn chịu trách
nhiệm nghe chưa? Má chín ở lại đây chừng một hoặc hai – ba tháng.
*
* *
Xìn
Phóc nhờ biện Tống tìm cho kỳ được một con rắn“quý báu” có vảy nhỏ và mịn giống
như miếng da rắn đã thuộc xong làm kiểu. Xìn Phóc đem trọn con rắn ấy về Sài
Gòn rồi trở xuống, mang theo khá nhiều tiền.
-
Thầy Hai ơi! Con rắn đó... trúng lắm, tốt lắm. Chẳng hay ở xứ này bà con bắt nó
dễ dàng không?
Biện
Tống cười dòn:
-
Loại rắn ri voi, hàng hà sa số. Nó lội dưới sông rạch trong rừng vào tháng ngập
nước như vầy.
-
Bên Sanh Ca Bo, ông chủ tôi muốn đặt mua chừng bốn ngàn miếng da rắn thứ đó, chở
gấp về bển, trong vòng hai mươi bữa. Bảo lãnh nổi không? Cứ một miếng da rắn,
tôi để cho thầy một đồng xu tiền huê hồng. Lần đầu tiên trong đời, biện Tống mới
gặp một trường hợp may mắn như vậy. Từ trăm năm rồi... nghe ông già bà cả nói lại
thì rắn ri voi là loại vô dụng. Nó sống dưới nước, mỗi con to bằng bắp tay, cắn
không chết ai cả. Mấy tay bợm nhậu chê rắn ri voi, thịt nó ăn không ngon bằng rắn
hổ đất. Thỉnh thoảng, nếu bắt được rắn ri voi, mấy tay nhậu ăn tạm hoặc thả nó
xuống nước, phóng sanh. Xìn Phóc quả quyết da rắn rất có giá tại Sanh Ca Bo.
Người ta mua nó đem về, thuộc lại làm bóp đầm bán giá cao. Rắn ri voi có vẩy mịn,
vảy ấy bám sát vào da, nổi hột sáng ngời: Người Âu châu xem da rắn ri voi là bảo
vật, quí gấp mấy lần da bò, da ngựa.
-
Ðược không? Một miếng da rắn, tôi chịu hai xu huê hồng!
Biện
Tống nói, thật thà:
-
Một xu, hai xu huê hồng tuy là số tiền khá to nhưng làm sao tôi nói cho bà con
lối xóm nghe. Họ bị gạt nhiều lần rồi. Năm xưa, có người đến mua con cắc kè, bảo
rằng đem về lột da bán ra ngoại quốc cho Tây với đầm làm bóp, làm dây nịt. Hắn
cho hàng mấy chục tay em vào thôn quê, mua cắc kè với giá hơi cao...
Người
khá giả trong vùng nghĩ ra cách: xuất tiền mua cắc kè của bọn tay em này bán lại
cho tay đầu nậu ở chợ Gò Quao. Bọn tay em này làm giàu. Nhưng số cắc kè dự trữ ấy
chỉ bán được lần đầu mà thôi vì tay tổ lưu manh làm đầu nậu ấy chỉ mua một lần
đầu lấy lệ. Mấy người khá giả làm trung gian đành ôm bụng kêu trời với số cắc
kè quá nhiều dự trữ trong nhà, mua bằng giá khá cao, tưởng rằng bán lại thì lời
to nhưng chẳng ai mua lần thứ nhì. Tay tổ lưu manh và số tay em nọ đã cao bay
xa chạy... một cách hợp pháp.
Má
chín Xìn Phóc cười dòn:
-
Cắc kè là chuyện khác. Rắn ri voi là chuyện khác. Thầy Hai hãy cầm số tiền này,
mua về cho tôi.
-
Tiền nhiều quá, nếu tôi giữ trong mình, tụi bất lương dám cướp bóc bất tử...
-
Thầy Hai quen với họ, chẳng lẽ họ giết thầy Hai...
Biện
Tống nhận số tiền hơn ngàn đồng - số tiền to tát, thời bấy giờ. Xìn Phóc xem kỹ
lần nữa. Ðúng lắm. Rắn ri voi của miền U Minh đã được các nhà thuộc da ở bên Ăn
Lê gọi là “Acrochordusjavanicus” với lời chú thích: serpent – éléphant d’eau
douce (rắn voi ở vùng nước ngọt). Ông ta chỉ dạy cho biện Tống về giá cả, cách
lột da... Ðâu đó xong xuôi, ông ta nằm nhà, chờ ngày gom góp da rắn, đem về
Sanh Ca Bo. Nếu biện Tống giựt tiền thì ông ta sẽ nhờ sự can thiệp của tên cò
Lơ Hia.
Hôm
sau, biện Tống trở thành nhân vật quan trọng nhứt trong xóm. Bà con bao vây chú
ta, để mượn tiền trước. Biện Tống báo tin long trọng: - Xứ người ta có mỏ vàng.
Xứ mình có rắn ri voi, quí như vàng. Da rắn này đem về thuộc lại, bán cho ông
hoàng bà chúa ở bên tây. Hồi mấy năm trước, đã xảy ra vụ mua cắc kè. Lần này
khác hẳn. Cắc kè nhỏ quá, lột da nhỏ xíu. Da rắn to hơn da cắc kè gấp bội, đẹp
hơn da trăn. Bấy lâu nay, người Huê kiều mua da trăn, bà con dư biết điều đó.
Lời
giảng giải ấy được đa số tán thành. Họ xin lãnh tiền trước. Biện Tống cho mượn,
mỗi người năm đồng để làm sở phí, chừng nào nạp da rắn thì trả thêm. Tuy nhiên,
điều kiện nêu ra khá gay go:
-
Da rắn bán mắc hay rẻ, tùy theo bề ngang. Nếu bề ngang không đủ một tấc thì bị
loại.
-
Da phải lột sạch sẽ, cạo hết mỡ rắn.
-
Nếu da bị lủng lỗ thì mất giá. Miếng da nào lủng năm lỗ thì kể bỏ.
Làm
sao tìm ra da rắn cho thật nhiều, thật tốt để bán? Thiệt là thế gian hi hữu. Rắn
ri voi vì nó to lớn (như con voi!), da nó mang nhiều vảy rằn ri, đẹp hơn da
trăn được nâng lên hàng đầu, quí hơn rắn hổ, rắn mái gầm hoặc cá tôm. Nó quí
hơn con gà con vịt, gà vịt phải nuôi, ấp trứng... tốn thì giờ. Ðằng này rắn ri
voi thuộc vào loại chim trời cá nước, ai bắt được nấy hưởng, khỏi đóng thuế cho
sở kiểm lâm. Mọi người đều mặc nhiên được quyền truy kích rắn, chẳng cần xin
phép hương chức làng, chủ đất, chủ vườn!
Bình
thường dân trong xóm ưa... cờ bạc, đờn ca vọng cổ mùi mẫn hoặc hát huê tình đối
đáp. Giờ đây, ai nấy đều bận việc, bất luận già trẻ bé lớn, chẳng ai thèm cờ bạc
vì bắt rắn của trời đất, lột da nó ra, bán bằng giá quá cao... Cũng là hình thức
cờ bạc tinh vi mà mọi người trong sòng đều hưởng lợi.
Vui
sướng quá! Biện Tống lấy làm hãnh diện. Chú tìm ra công ăn việc làm cho bà con
lối xóm. Số da rắn mua được tuy nhiều nhưng vẫn còn ít.
Ngày
đầu, hai trăm miếng da.
Ngày
kế đó, ba trăm miếng da.
Ngày
kế, năm trăm miếng da.
Ðến
ngày kế, năm trăm miếng da... thứ thật to.
Thật
là kỳ lạ, đáng suy nghĩ. Làm thế nào dân làng tìm ra năm trăm con rắn mỗi ngày?
Ban đầu. Xìn Phóc sanh nghi, ngỡ là loại rắn khác. Nhưng sau khi xem kỷ, anh
chàng má chín gật đầu xác nhận:
-
Ðó là rắn ri voi thứ thiệt. Dịp này, ta nên mua da rắn với giá thấp hơn. Thầy
Hai nghĩ sao? Rắn ri voi ở xứ này sao mà mau lớn quá. Nè, mỗi tấm bề ngang hơn
ba tấc!
Biện
Tống đáp:
-
Ðể tôi dạo khắp xóm làng rồi cho ý kiến sau.
Xìn
Phóc ghé tai nói nhỏ với biện Tống:
-
Hai người mình làm giàu rồi. Nếu rắn quá nhiều, tôi mua tám ngàn tấm da thay vì
bốn ngàn như đã định. Ðừng nói họ biết, họ làm núng. Luôn dịp, thầy Hai ghi
chép cách bắt rắn của họ để sau này tôi qua bên Xiêm, qua Miến Ðiện dạy cho dân
chúng. Dân Việt Nam giỏi quá.
Ban
đêm hàng trăm chiếc xuồng tới lui khắp hang cùng ngõ hẻm. Dân làng đốt đèn như
mở hội hoa đăng. Từ hồi lập quốc, khai hoang, chưa lần nào vùng rừng tràm U
Minh Hạ lại tưng bừng như vậy. Biện Tống đã hiểu: dân làng không bắt bằng tay
hoặc không dùng mũi chĩa mà xom. Phương pháp ấy quá chậm chạp, làm hỏng da rắn,
mất giá. Xưa nay, họ quen nghề câu: câu giăng, câu cắm. Mỗi người sắm hàng trăm
cần câu, móc mồi cá sặc rồi cắm xuống bãi bùn, tùy thích. Cứ năm bảy phút, họ
bơi xuồng trở lại chỗ để gỡ rắn.
Rắn
vi voi đớp mồi chậm chạp, lưỡi câu mắc vào mép miệng rắn. Nếu gỡ ra quá chậm
thì rắn sẽ sứt mép, tẩu thoát.
Biến
Tống đến gặp Hai Kỳ, người đó bán trên hai trăm miếng da rắn. Nhà Hai Kỳ trở
thành một cái xưởng khai thác rắn sống. Trước sân, hàng chục tấm da, căng ra,
đóng đinh cho thẳng thớm. Trong nhà, Hai Kỳ đang lui cui lột da rắn. Rắn bị siết
cổ, buộc vào gốc cột nhà. Bàn tay khéo léo của Hai Kỳ cầm dao nhỏ, rọc một đường
dài từ cổ tới hậu môn rắn. Lột da là chuyện dễ, đàn bà có thể làm được.
Biện
Tống hỏi:
-
Xác rắn đâu hết rồi?
-
Dạ, mấy bữa đầu thì tôi nướng, nấu cà ri, thắng mỡ để dành. Mỡ rắn làm thuốc
dán trị ghẻ, trị phỏng lửa. Lâu ngày tôi đào lỗ mà chôn... Uổng quá.
-
Làm cách nào bắt rắn cho nhanh?
Nghe
câu hỏi ấy, Hai Kỳ nghĩ hồi lâu:
-
Khó nói lắm. Tôi chỉ biết câu rắn mà thôi, câu cắm như chú biện thấy. Ðằng xóm,
có ông Bảy Ðăng câu rắn theo kiểu này lạ lắm.
-
Kiểu gì?
-
Ông ngồi một chỗ, thả cần câu xuống nước, tay ôm cần như ông Khương Thượng trên
thạch bàn. Kế bên có chai rượu. Vậy mà mỗi ngày ổng câu hơn ba chục con rắn, giỏi
hơn tụi trai tơ, tụi này buồn bã suốt ngày, cắm hàng trăm cần, bơi xuồng tới
lui vất vả quá.
Bảy
Ðăng là một ông lão khật khùng, uống rượu li bì, say té lăn, ngủ bờ ngủ bụi. Riết
rồi bà con hàng xóm chẳng ai màng săn sóc lão. Biện Tống bơi xuồng đến gần chòi
Bảy Ðăng buông cần câu, nói vồn vã:
-
Vui lắm. Nhờ ông má chín Xìn Phóc mà sau này, tôi chết trong hòm. Mai chiều tôi
mua cái hòm (quan tài) thứ tốt cho bà con ngán chơi. Nếu má chín Xìn Phóc ở đây
vài năm, tôi sắm cái hòm bằng vàng.
-
Ông làm cách nào mà câu rắn giỏi hơn thiên hạ?
Bảy
Ðăng cưòi khì:
-
Tôi câu bằng thuốc mê.
-
Thuốc gì? Dùng chất... hoá học hả? Hay là ông làm bùa?
-
Ðây nè!
Bảy
Ðăng chỉ vào chai rượu:
-
Nó là rượu đế, thứ ngon.
Nói
xong, lão mời biện Tống uống. Biện Tống từ chối. Lão nốc một hơi rồi để chai rượu
xuống bãi cỏ. Chai rượu nằm hơi nghiêng, không đậy nút.
-
Lát nữa, chú biện coi!
Hai
ngưòi im lặng. Từ mé nước, một con rắn ri voi trườn lên... đến gần miệng chai
rượu rồi thập thò, rút lui như hoảng sợ. Bảy Ðăng nâng chai rượu, nhểu vài giọt
xuống nước, trên cỏ. Con rắn... hăng hái bò trườn, đến gần miệng chai. Bàn tay
lanh lẹ của Bảy Ðăng chụp xuống, bỏ rắn vào giỏ.
-
Rắn xưa kia không biết uống rượu. Nhưng mà cho tụi nó tập tánh nếm mùi... cay đắng.
Bữa đó, tôi uống rượu, ngủ quên rồi quơ tay kiếm chai rượu đổ hết. Chừng thức dậy,
tối thấy rắn bò lại để ngửi hơi.
Biện
Tống như phát giác điều gì quan trọng:
-
Té ra cái chai rượu là cái cần câu rắn.
Bảy
Ðăng vội đính chính:
-
Là cái bẫy thì đúng hơn. Cần câu này, tôi cầm trong tay để che mắt thế gian, vậy
thôi. Rắn mê rượu. Nếu giàu thì tôi giữ độc quyền bắt rắn, ngặt vì tôi nghèo.
Tôi sẽ mua vài ngàn lít rượu, đổ xuống rạch. Rắn trồi đầu lên mà nhậu, lờ đờ ai
muốn bắt thì bắt.
Nhưng
biện Tống vẫn chưa thắc mắc. Mớ rắn của Bảy Ðăng đều nhỏ. Làm sao mà lột được tấm
da ba tấc bề ngang? Bảy Ðăng gật gù:
-
Chuyện đó bí mật. Muốn am tường thì nên tới nhà Sáu Kiến. Tôi bán cho Sáu Kiến.
Thằng cha đó chuyên môn lột da.
Biện
Tống đến nhà Sáu Kiến. Hắn đang làm việc trong căn chòi bí mật, sau hè, nài nỉ
lắm vợ con hắn mới chỉ rõ địa điểm, Sáu kiến trợn mắt:
-
Ủa! Chú biện, làm sao chú biết tôi ở đây?
-
Thì vợ con của anh nói.
-
Ðồ mắc dịch! Vợ con tôi báo hại tôi...
Vừa
nói Sáu Kiến vừa liếc lên trần nhà. Ô hô! Biện Tống ngỡ mình lạc vào một cái hắc
điếm trong truyện Tàu, loại hắc điếm làm thịt người mà bán cho thân chủ. Hàng
chục con rắn no tròn, bón láng, treo lủng lẳng, đong đưa, như những khúc dồi to
tướng. Sáu Kiến nói lẩn thẩn:
-
Này chú biện. Chẳng lẽ tôi bắt buộc chú uống máu ăn thề. nếu chuyện này tiết lộ
ra, chắc tôi giết chú.
-
Sao? Nói gì ghê quá vậy? Giữa anh em mình nào xảy ra chuyện xích mích. Treo mấy
con rắn đó lên nóc nhà để làm gì? Sao mà nó lớn quá vậy? Hèn gì mỗi tấm da lột
ra ba tấc.
Sáu
Kiến đưa ra một cái ống bơm xe máy:
-
Ðó! Chú hiểu chưa. Tôi buộc lỗ đít rắn lại rồi thì bơm hơi vô miệng rắn. Con rắn
trở thành cái ruột xe máy, căng thẳng, no tròn và chẳng bao giờ nổ. Tôi bơm
hoài, bơm mãi rồi vuộc miệng rắn lại, treo tòn ten. Tới nước nào đó, tôi lột
da, tấm da rắn bề ngang hai tấc sẽ trở thành ba tấc, nhờ khí... của trời.
Biện
Tống cười chua chát:
-
Bà con mình sáng chế nhiều kiểu hay quá.
Sáu
Kiến nói:
-
Cho thằng má chín Xìn Phóc nó biết một trận. Nếu bị bơm hơi, da rắn phải mỏng.
Hễ mỏng thì Tây với đầm xài cái bóp mau rách hoặc sợi dây nịt mau đứt. Tụi nó
phải qua đây mua thêm nữa...
Nhưng
Sáu Kiến lầm to.
Phen
đó, Xìn Phóc mua mấy ngàn tấm da rắn, trả tiền sòng phẳng, đi biệt tích. Mùa rắn
năm sau, bà con lối xóm có lòng mong đợi nhưng hắn không trở lại. Hỏi lý do thì
biện Tống không biết. Ðến tết, tình cờ biện Tống ra chợ Ngã Năm gặp ông cò Lơ
Hia. Ông cò cho biết:
-
À! Cái ông má chín Xìn Phóc. Ổng gởi thơ cho tôi, chúc mừng năm mới. Ổng nói da
rắn ở xứ U Minh mỏng quá, chuyến đó đem về, ổng lỗ vốn.
Biện
Tống giả bộ ngây thơ:
-
Tại sao lỗ vốn?
-
Xìn Phóc nói: khi đem ngâm chất hoá học thì da rắn cũng như giấy hút thuốc, nhiều
chỗ bị đứt theo lằn ngang, lằn dài. Thay vì làm được sợi dây nịt cho người lớn
thì da nó chỉ dùng làm dây đeo đồng hồ tay. Thay vì làm bóp cho đàn bà thì da
nó chỉ dùng làm bóp cho con nít. Mà con nít bên Tây đâu có xách bóp.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
namkts57@gmail.com