Cuộc hành lễ buổi
sáng
Mạc Can
Kính thưa quí độc giả, tôi là... cái
bàn quèn. Tôi có ba chân bằng nhau, một chân cà thọt, cụt hơn mấy người anh em
kia khoảng lóng tay. Có tật có tài. Tôi có tài “bà Tám” nhiều chuyện.
Trong
quán phở một ngày biết bao người tới, tôi nghe biết bao nhiêu là chuyện. Tôi rất
bận bịu, như quý khách thấy, hiện giờ trên mặt tôi đầy những dĩa rau, những
chai tương, chén ớt. Và tôi đang liếc nhìn một ông khách. Sáng nào ông ta cũng
từ con hẻm nhỏ đi tới cửa quán. Vẻ nôn nóng. Hôm nay nhìn thấy tôi quá bận, vì
khách ăn phở hôm nay đông hơn mọi ngày, nên ông ta lui ra, ngồi đâu ở mấy cái
bàn ngoài vách. Nhưng một lúc sau ông đi vào nhà, tới ngồi kế bên tôi. Giận dữ,
ông lấy tay gạt đi nhiều thứ trên mặt tôi rồi ngồi cúi nhìn xuống đất, im re một
lúc khá lâu. Bỗng ông ngước mặt nhìn lên trần nhà la lớn, làm cho tôi giật
thót... bàn; còn các vị khách thì giật mình:
- Ăn hết ngon!
Tôi nghĩ là quí khách nghe chuyện khẽ
hừ một cái, và có thể khẽ cười. Tôi phải ngưng chuyện của tôi một chút để tường
thuật sốt dẻo về ông khách mặt rỗ hoa, màu da tai tái như con gà mái này. Môi
ông khẽ nhếch lên, phô vài cái răng trắng nhởn. Ông ta to con, vì vậy mà... hao
xăng, tốn nhiên liệu, tánh xấu đói. Người đàn bà nấu phở vội vã nói với chồng:
- Anh hỏi coi ảnh ăn gì.
Ông kia cằn nhằn:
- Hỏi mẹ gì nữa, nấu vàng ăn cũng hết
ngon.
Người chồng của bà nấu phở tới đứng
cạnh tôi, không nhìn ông khách cũng không hỏi ông ăn gì. Ông kia hằn học nói lớn:
- Tô khô như cũ, nước lèo, đầu gà để
riêng.
Người chồng của bà nấu phở quay đi.
Khi trở lại, trên tay ông là một tô phở nóng, khô queo không có nước lèo, cố ý
dằn mạnh trên mặt tôi, trước mặt ông kia. Ông khách cay cú nhìn tô phở, vừa cằn
nhằn, vừa nghiến răng, vừa bẻ, vừa lặt đủ thứ rau, rồi lườm lườm múc tương ớt,
tương đen; bực bội bỏ giá sống (giá sống phải trụng để riêng trong cái chén cho
ổng) trộn vào phở. Ông cự nự... nặn chanh. Ông lầm bầm... bỏ ớt vào tô phở “xe
lửa” bự chảng. Ông hầm hừ thò đũa cuộn tròn một mớ phở, như người Tây ăn mì Ý,
cho cuộn phở vô miệng, nút một phát, sợi phở chạy rột tuốt vào miệng. Sau đó
hai tay ông trân trọng cầm cái tô nước lèo, tái nạm, sụn gân, tủy đuôi, nước
béo, thêm mấy cái đầu gà luộc, mỏ gà vêu lên, mắt gà nhắm híp. Nâng tô nước lèo
lên môi, ông uống một ngụm, khuôn mặt biến chuyển lạ kỳ. Từ lo lắng bây giờ mới
giãn ra, vẻ khoái trá.
Thường thì người ta chỉ ăn mì khô
hay hủ tíu Nam Vang khô kiểu nầy. Phở, tái nước hột gà ăn thêm thì có. Phở, áp
chảo sốt vang cũng có. Còn phở... khô thì tôi mới thấy mỗi một mình cha này ăn
một cách kỳ cục.
- Hành trần. Củ cải.
Mồ hôi nhỏ giọt trên trán, cái miệng
láng mỡ. Trong lúc chờ ông ta cau có nhìn quanh, nói lớn:
- Nhìn cái gì. Tui bị lên máu biết
không. Đói là hạ đường huyết, tay run vầy nè biết không. Sáng mà không ăn kịp là
có khi chầu trời. Tôi vô trước kêu trước (phải, tôi thấy ông ta ngồi bên cái
bàn ngoài vách) mà cả tiếng đồng hồ ngồi chờ. Chờ ngóng cổ dài râu mà... đ.m.
nó, nó cứ bưng tô phở đi ngang mình rồi đưa cho người khác. Tức không. Ăn hết
ngon.
Ông này dữ tánh lại háu ăn hơn người.
Phục vụ trong quán phở chỉ có hai ngoe. Người đàn bà có cái mông lớn, đứng nấu
phở coi cũng dữ tướng, đôi môi nhỏ màu son nâu tím Hàn Quốc lúc nào cũng mím chặt.
Bà rầy ông chồng cũng to con, da màu nâu sẫm trời cho, chân mày xếch ngược lên
cái trán thấp, mắt lộ trắng dã, ria mép trên cái môi dày chọc vào miệng, râu
quai nón kín hàm lởm chởm ngả màu đỏ, khuôn mặt gây sự, chân đi chấm phẩy.
Bà vợ nói:
- Biết vậy thì anh bưng trước cho ổng
đi, khổ quá!
Ông chồng nghiến răng:
- Tao thấy nó vô tao chết liền.
Câu nói “chết liền” mới nảy sinh
trong dân gian mấy lúc gần đây; trong trường hợp nào tôi không biết nhưng ở
hoàn cảnh nầy nghe suông tai.
Ông Trương Phi râu đỏ đứng cạnh vợ,
phụ bỏ hành, múc nước lèo trong cái thùng bốc khói đổ vào tô. Mà coi ngộ ghê
chưa, ông ta cũng vừa nghiến răng, vừa múc. Vừa chửi thề, vừa nhón tay nhúng cọng
hành trần vô nước nóng. Vừa cự nự vừa vớt cọng hành lên. Vừa lầm bầm chửi vừa
như muốn liệng mẹ cái muỗng lớn ra ngoài đường. Giận. Tôi lại nghĩ rằng quí độc
giả hừ lên một tiếng nữa. Và cũng có thể cười nụ.
Bàn tay to lớn, mấy ngón tay như
trái chuối sứ của ông Trương Phi run run, cái miệng dữ dằn rít nhỏ:
- Mày... mày mà gặp tao mấy năm trước
là rửa cẳng lên bàn thờ ngồi nghe con.
Ông ta thở mạnh, cho thấy răng đang
cắn chặt, nổi lên từng thớ thịt trên cái quai hàm bạnh ra. Ông cà nhắc đi tới,
tay cầm cái chén hành trần với vài củ cải trắng dằn mạnh trên mặt tôi, trước mặt
ông kia. Rồi lại rít nhỏ hơn qua kẽ răng:
- Mày biết bản tánh khốn nạn của tao
mà. Tao giận là tao run, tao run là lên máu, tao lên máu là chém, nghe chưa.
Ông chồng thở hổn hển, cà nhắc trở lại
đứng bên vợ, tay cầm con dao phở chặt vào cái thớt mòn. Bà vợ giật con dao lại,
mím môi thở ra kẽ răng mấy tiếng:
- Buôn bán mà làm cái gì như ăn cướp
vậy, mất khách chết đói cả đám.
Vậy là mình có hai ông bạn hiếm thấy.
Một ông đói thì giận. Một ông bưng tô “nhạy cảm” thì cũng giận. Hai ông đều có
bệnh giống nhau. Run tay lên máu quạu quọ. Lạ kỳ trong cái chuyện đời nhiêu khê
này. Thường thường những ông sống nhờ vợ lại có tướng mạo oai phong, tánh tình
quạu quọ. Trong lúc ông này bực bội, nực nội, nóng hơ bỏ ra cửa quán, tay cầm
ly trà đá, tay cầm một vạt áo phe phẩy cho nguội thì ông kia cũng tự ái giận hờn,
ngồi nghiến răng.
Điều lạ với người mới biết chuyện là
như vầy. Ăn phở khô thì ông ta sảng khoái thấy rõ nhưng ngần ngại. Nhìn cái đầu
gà luộc to tướng mà chính ông gọi, ông lo lắng moi cái óc gà nhỏ xíu bỏ vào miệng,
nhắm mắt khổ sở nuốt mắt gà đục ngầu. Xong một cái lại ngần ngại cố ngậm trong
miệng cái đầu con gà khác. Bóc cái mào cứng của nó, bỏ vào miệng trệu trạo nhai
và nuốt trọn. Nhìn ông dùng đầu gà một cách thành kính như một lễ cúng ai cũng
lạ mắt và hơi tức cười. Chân ông ta ở dưới bàn co giật, đụng mạnh vào cái chân cà
thọt của tôi đang kê trên một nút khoén. Chân tôi sụp thì mặt tôi chông chênh
nghiêng. Tô nước lèo sóng sánh đổ tràn ra. Ông ta vẫn cố ngậm cái đầu gà ở khoảng
cái cổ dài của nó. Thành ra khi ông cúi xuống bàn nhìn cái chân thiếu thước tấc
của tôi, tôi thấy bốn con mắt giống nhau; hai con mắt của ông và hai con mắt của
cái đầu gà. Hình như nó chớp chớp mi mắt.
Hình như cái đầu gà còn sống và nó
muốn gáy. Một chân của ông ta, ngón cái và ngón kế bên khéo léo gắp cái quai
dép cũng của ổng, đẩy nhẹ chiếc dép kê vào cái chỗ hở giữa đất và chân tôi. Ông
ta rùng mình trợn trắng cho tới khi cất cái đầu lên. Miệng ông đang nút cái mỏ
gà, cái mỏ gà hình như cũng đang nghiến răng, nhắm mắt chịu trận. Nếu như con
gà có răng... Thủ cấp con gà nòi đã chết, luộc tái. Cái mặt gà đỏ rần hung dữ
gây hấn lúc còn sống bây giờ trắng nhợt nín thinh. Qua một nụ hôn môi sặc mùi
hành.
***
Trở lại chuyện tôi. Tôi là cái bàn xấu
xí đứng khập khễnh cuối vách tường bám đầy khói bếp và bồ hóng. Chỉ có một cái
ghế khá cao, cũng sứt tai gãy gọng, suốt ngày đứng cạnh tôi. Luôn luôn đứng cạnh
tôi. Vì nó cao mà mấy bàn phở kia thì thấp, không ai chuộng nó. Chuộng nó, tức
là ngồi lên nó, người ăn phở phải còng lưng cúi cái mỏ xuống cho gần miệng tô,
quá khó khăn khi ăn sợi phở dài. Có những điều bất tiện như vậy trong đời sống
hằng ngày nhưng vẫn không thay đổi, kéo dài triền miên. Duy chỉ có Ba Gà Mổ,
người khách tôi vừa kể ăn phở khô, là hay ngồi cái ghế cao và ngồi cạnh tôi
cũng rất thấp, dù ông ta cũng phải còng lưng cúi sát xuống miệng tô. Tôi nghiệm
ra ông ta ăn phở như cái đám giỗ nhỏ, chén dĩa đầy bàn. Nên nếu không có gì trở
ngại, nghĩa là nếu tôi không quá bận bịu thì ông mặt tái luôn chọn cái góc này.
Để được ngồi làm cái lễ kỳ lạ với những cái đầu gà chăng? Việc gì cũng phải có nguyên
nhân của nó.
Tôi làm trong cái quán phở bèo của vợ
chồng cha nội Hai Thọt khá lâu. Ông chủ của tôi cũng chân cao chân thấp. Như hồi
nãy tôi có nói, người ta hay gọi loại chân kiểu nầy là chân chấm phẩy. Hai đứa
tôi, tức ông Hai Thọt và cái bàn, không hề bẩm sinh mà bị què. Một hôm có vụ ẩu
đả trong quán phở giữa buổi chiêu đãi của các tay đá gà độ, trong đó có Ba Gà Mổ,
ông Hai trượt chân xuống bậc thềm đầy mỡ. Tức cười là mấy ngày sau, khuỷu chân
nơi mắt cá của ông Hai sưng lên. Đi bó con gà ác với rượu thuốc cả tháng vẫn cứ
sưng, nhức nhối chịu không thấu. Bà Hai chở ông đi Tây y chấn thương chỉnh
hình, bác sĩ nói:
- Ông bị nứt xương chảy tủy ra rồi.
Bệnh nầy phải mổ thôi. Mà nói trước, mổ cũng chưa chắc hết chảy tủy.
Một năm sau, chân Hai Thọt vẫn chảy
tủy, sưng vù, hoại thư, phải cưa bỏ bàn chân. Người ta cười khẩy. Ông Hai “nhạy
cảm” một hôm nổi hứng đá chiếc trực thăng đang bay trên cao. Sự tích châm biếm
lạ lùng đó cộng thêm nét dữ tướng, thêm cái chân thọt kiểu hải tặc coi ông càng
ngầu hầm. Cái cảnh một hảo hán kiểu Lương Sơn Bạc vừa cự nự vừa bưng từng tô phở
chiều khách, coi buồn cười. Tôi là bạn đồng... tật với Hai Thọt nhưng tôi vẫn cứ
nghĩ đây là một đòn trừng phạt khéo léo của ông Trời. Trời cao có mắt, trừng phạt
khổ sai nhọc nhằn về mặt tâm lý một kẻ chuyên xài chiêu bạo lực. Giờ thì bắt buộc
phải nhũn như con chi chi. Khách ăn phở tủm tỉm kín đáo cười nhìn Hai Thọt nghiến
răng bưng tô nước lèo, hành trần cho Ba Gà Mổ. Sau đó lần nào Hai Thọt cũng uống
trà đá.
Sự tích cái chân Hai Thọt thì vậy.
Còn chân tôi thì đơn giản, như là chuyện giỡn. Tất cả đều do ông thợ mộc quên.
Ông quên tề bớt ba chân kia cho bằng với chân tôi nên tôi mới què. Sự đời nhiều
khi đơn giản như vậy mới chết chứ. Nói ngay vô chuyện là Hai Thọt. Con quỉ một
giò này cũng là dân giang hồ có số. Lúc sau này dân anh chị bị chiến dịch truy
quét hốt vô khám hơi bị nhiều, Hai Thọt cũng chung số phận. Trong khám ông ta cố
gắng sống tử tế. Gỡ mấy cuốn lịch rồi khi về nhà với cái giấy tạm tha giắt
trong lưng. Vậy mà sự “nhạy cảm” cũng như cũ.
Song nói thật lòng, nhờ cái giấy tạm
tha, kiểu như vòng kim cô của Tam Tạng gây nhức nhối trên trán ông khỉ đột Tề
Thiên, cho nên mỗi lần nổi cơn “nhạy cảm” Hai Thọt cũng chỉ dám nghiến răng,
hít thở... uống trà đá. Không biết ai chỉ Hai Thọt cái chiêu này: khi nào thấy
trong lòng trào dâng bức bối nóng giận, nên tự làm một ly trà đá, chịu khó uống
từng ngụm nhỏ. Uống trân trọng theo kiểu trà đạo, nhưng uống ly cối và có nhiều
nước đá. Rồi ra ngoài gió, phe phẩy hai vạt áo thì trong người nguội bớt nhiệt
độ, bớt... “nhạy cảm”.
***
Ba Gà Mổ là dân chơi cầu ba cẳng. Cố
tật cãi cha cãi mẹ, bản chất đâm bị thóc, thọc bị gạo, ngồi đầu cầu thổi ống
tiêu, đâm cha thuốc chú hãm chị dâu. Huýt gió kích động,đá cá lăn dưa đã quen.
Cái môi cố tật cứ nhúc nhích rồi nhếch lên khinh bạc làm cho người ta cứ tưởng
ông ta cười mỉa. Nhưng bây giờ trông ông ta không khác con gà chọi trúng
thương, buồn hiu, khắc khoải. Ba Gà có nghề nuôi gà nòi, nên sân nhà của Ba tự
nhiên thành trường gà mini.
Ngày chủ nhật, ông công an khu vực
chạy xe ngang sân nhà Ba Gà, nhìn sơ một chút rồi thôi. Lập tức từ giờ cao điểm
đó cho tới chiều tối, tiếng chửi thề vang lên cùng với tiếng gà xổ cánh, chân
gà quấn cựa sắt quần thảo không dứt. Tất nhiên những con gà xấu số ngã quị trên
nền đất đẫm máu trong trường gà này hằng ngày phải mười mấy trự. Ba Gà Mổ vừa
bán băng keo dùng quấn cựa gà, vừa lấy xâu tiền vô nước gà. Ông thầu luôn phần
thịt gà nòi mà thường các chủ gà đá thua chửi thề bỏ đi.
Hai Thọt và Ba Gà Mổ có quen nhau trong
khám Chí Hòa. Và không ưa nhau cho lắm. Binh giáp rã rời sau mấy trận bị truy
lùng tận số, giờ thì anh chị cách mấy cũng xụi râu về với đời thường. Ba Gà Mổ
hợp đồng với Hai Thọt, cung cấp gà nòi chết cho Hai Thọt nấu cà ri bán buổi chiều.
Cũng bán ngay quán phở buổi sáng của vợ y. Đổi lại, trong hợp đồng miệng này Ba
Gà có nói hai ba lần, đầu gà nòi bỏ vô thùng nước phở dành riêng cho Ba dùng
“làm thuốc” mỗi buổi sáng. Ai mà chịu bỏ đầu gà vô thùng nước phở của mình
nhưng Hai Thọt năn nỉ vợ thông qua cũng vì món lợi xác gà nòi mà Ba cung cấp.
Nói nào ngay, gà nòi da dai thịt cứng mà hầm nấu cà ri là trên cả tuyệt vời.
Nhiều vị khách sành điệu cà ri gà tới ăn. Mặc dù không khí căng thẳng nhưng vợ
chồng Hai Thọt sống được quán phở sáng và cà ri chiều.
Chuyện cung cấp thịt gà đó cũng có sự
tích. Một hôm Ba Gà Mổ đi coi... tướng. Ông thầy coi tướng mặt mày lạnh lẽo
nhìn là ớn lạnh. Ông thầy cư ngụ trong cái miễu hoang giữa vườn chuối vùng ngoại
ô. Vừa nhác thấy Ba Gà dựng chiếc xe Honda cánh én trước thềm, ông liền nói vói
ra cửa; tiếng cha thầy tướng này sao cũng the thé như gà mái:
- Ông Ba nuôi gà nòi đá, mỗi ngày phạm
giới sát sanh, làm chết không biết bao nhiêu mạng gà. Năm nay là năm con gà; cơ
hội cho nhiều gà lãnh hộ chiếu xuất cảnh đầu thai. Nhưng nguyên tắc mới: gà
không có đầu thì diêm vương không in dấu triện. Do vậy mà chính ông phải chịu
hình phạt, mỗi buổi sáng phải gặm, ăn óc, nút mỏ ít nhất là ba bốn cái đầu gà.
Được vậy thì may ra ông mới hết oan gia nghiệp báo. Còn nếu như cự cãi thì trước
sau cũng bịnh nặng. Ngáp gió, kêu cục tác như con gà mái đẻ. Và câu lưu trở lại
Chí Hòa uống trà đá, ăn bánh ình.
Chuyện như là giỡn chơi. Không hiểu
sao ông thầy coi tướng mặt tủ lạnh lại biết tỏng Ba Gà chứa gà đá. Chỉ có tôi
biết, là do một hôm có tay nuôi gà địch thủ của Ba Gà vô tình ngồi ăn phở đúng
ngay cái bàn tôi. Anh ta nói ông thầy coi tướng Ba Gà chẳng ai xa lạ, cũng là Độc
Thủ Cầu Bại móc túi, đổi giỏ trên chốn giang hồ. Ông này có gặp Ba Gà Mổ và cả
Hai Thọt trong khám. Hai Thọt biết nhưng thâm không hề tiết lộ. Ba Gà Mổ không
hề biết. Tội nghiệp cho kẻ gian tà, trời hại đúng thằng gian. Gặp ngay cố nhân
nói rất đanh thép ngay chuyện mà ông Ba lo nhất cho hậu sự của ông.
Cho nên mỗi sáng ông ta nôn nóng tới
quán phở, cố gặm cho hết ba bốn cái đầu gà nòi. Ông trời có mắt biến tấu trừng
phạt. Phạt Ba Gà Mổ về cái tội đá gà độ, cờ bạc, gian manh nhiều thứ. Ba Gà Mổ
coi tướng dữ dằn vậy mà nhát, thường thì cái tướng cái tánh hung dữ bất lương
hay đần độn ngu si. Ông ta còn dị đoan, tin chắc chuyện gặm đầu gà sẽ cứu ông
ta khỏi trở vô nhà đá.
Cho nên nói đi rồi cũng nói lại. Mỗi
sáng ông Ba phải làm cái lễ. Vừa hậm hực, vừa cằn nhằn, cau có chửi rủa Hai Thọt,
vừa nhẫn nại lo lắng gặm đầu gà nòi chết. Vậy đó. Và cũng đúng với câu mà con
gà trống nào cũng vỗ cánh gáy mỗi buổi sáng:
- Đời... chỉ... có... thế... mà...
thôi...
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
namkts57@gmail.com