Hát bội giữa rừng
Sơn
Nam
Rạch Khoen Tà Tưng ngày...
Cháu X.,
Hèn lâu, bác mới nhận được thơ của
cháu gởi xuống thăm bác.
Dưới này, xóm riềng đều được vạn sự
bằng an. Trong thơ, cháu hỏi về sự tiêu khiển của người mình hồi mới khai thác
đất hoang, năm sáu chục năm về trước. Cháu nói hồi đó dân mình ưa hát đối, hát
huê tình. Không phải vậy đâu ! Hát đối cần có sông rạch thông thương để bên
trai bên gái tự do bơi xuồng song song nhau mà hát. Ðằng này, "dưới sông sấu
lội, trên rừng cọp đua" có ai dám bơi xuồng ban đêm bao giờ ! Việc hát đối
cần có ít nhiều tiền bạc để làm tiệc tùng thết đãi tất cả những ai có mặt cho
vui với nhau. Ðằng này dân mình hồi đó còn nghèo lắm, ruộng chưa hết phèn, đình
chưa cất, hương chức làng chưa có.
Bởi vậy chỉ có hát bội là cách giải
trí độc nhứt của người đi khai phá đất mới.
Ai hát bây giờ ? Lẽ tất nhiên không
phải mấy người trong xóm. Họ không biết chữ nho, Tiền Ðường Hậu Tống gì hết.
Phải mời gánh hát bội từ xa lại hát
chơi một đôi tháng. Nói đúng hơn, ông bầu gánh đích thân tới xóm mình. Năm đó
nhớ kỹ lại... bác chừng mười bảy tuổi, xóm Khoen Tà Tưng mới có hai mươi căn
chòi lá.
Ông bầu gánh tới bàn với mấy ông kỳ
lão :
- Bà con tôi muốn lại đây hát giúp
vui.
Hát bội mà ai không ham, ngặt ông bầu
nọ buộc nhiều điều gắt gao quá. Như là phải nuôi cơm toàn ban nam nữ. Như là phải
cất rạp sẵn cho mấy ổng hát.
Nghe qua, mấy ông kỳ lão lắc đầu vì
đào kép toàn ban hát họ đông gần bằng dân số xóm này... Hơn nữa rạp cất giữa
vùng cọp beo, nghĩ cũng khó bảo toàn tánh mạng cho người hát và người đi coi
hát. Ông bầu đành năn nỉ :
- Bà con thương dùm, anh em tôi cực
chẳng đã mới chạy xuống miệt này ! Không lẽ bà con bắt nộp cho Tây chớ anh em
tôi ở miệt Vũng Liêm vô hội "Kèo Xanh" rồi bị đổ bể.
Ðộng lòng trắc ẩn, mấy ông kỳ lão đồng
ý. Rồi thì mõ đánh chuyền rao cho đầu trên xóm dưới hay rằng :
"Nay mai có hát bội tới, trước
mua vui sau làm nghĩa, mỗi nhà nên tùy hỷ góp vài vùa gạo để nuôi họ. Ðồng thời,
tất cả thanh niên trai tráng phải vô rừng đốn tràm, vạt nhọn dưới gốc sẵn".
Hỏi :
- Hát ban ngày hay ban đêm ?
Ông kỳ lão nói :
- Hát ban đêm mới vui chớ, ban ngày
để làm công việc đồng áng.
Có người cật vấn về vụ cọp ăn thịt
người, ông kỳ lão nói :
- Bà con đừng lo. Cứ đốn tràm về
đây, nhiều chừng nào tốt chừng nấy. Phen này, mình mời cọp và sấu tới coi hát với
mình cho vui luôn thể.
Tràm đốn về chất đống. Ông kỳ lão
đích thân đốc suất việc xây rạp. Cơ mưu của ông như vầy : cất một cái nhà sàn ở
giữa sông, theo kiểu ba căn hai chái. Ba căn giữa dùng làm sân khấu, hai chái
dành cho đào kép ăn ở, nấu cơm. Như vậy, nhứt cử lưỡng tiện chớ chòi trong xóm
nhỏ quá, đâu đủ chỗ cho họ ở đậu.
Hỏi :
- Dân tụi tôi đứng đâu mà coi hát ?
Ông kỳ lão nói :
- Bà con dốt quá ! Chung quanh sân
khấu nọ, mình xốc cừ làm vòng thành, gốc cừ này khít gốc kia chừng một gang
tay. Ai muốn coi cứ việc bơi xuồng vô vòng rào nọ. Xong xuôi đóng cửa lại. Cọp
phải bơ vơ ngồi trên bờ rạch. Sấu thì đành ngóng mỏ, ngoài vòng. Trong này,
mình ngồi trên xuồng mà coi sáng đêm ăn thua. Tuồng Tàu dài lắm.
Xóm Khoen Tà Tưng rộn rịp còn hơn Tết,
suốt ba bốn ngày liên tiếp họ dựng rạp, xốc nọc dưới sông. Mấy anh chị đào kép
mới tới vô cùng mừng rỡ, họ cởi áo ra tiếp tay.
Nhà cất xong. Bây giờ tới lượt lợp
lá, lót sàn. Lá dừa mọc sẵn dựa mé. Tràm nhỏ cây, ở đâu mà chẳng có, cứ đốn về
lót thế cho ván. Ðêm hát ra mắt, vui quá đỗi là vui ! Ðào kép thì áo mão xanh đỏ,
đầu giắt lông trĩ, ngặt hai bàn chân thiếu hia, thiếu hài. Trống đánh thùng
thùng. Kèn thổi tò ti te.
Hai bên rạp chong bốn ngọn đuốc sáng
rực.
Họ hát tuồng Phong Thần, lớp lập Bá
Lạc Ðài. Tuồng nhắc lại khi Tử Nha còn hàn vi nhờ người bạn là Tống Dị Nhơn cưới
vợ cho. Vợ tên là Mã Cơ. Rủi thay, cô vợ này có tật thô lỗ, xúi giục chồng đi
ra chợ kiếm tiền cho cô ta xài phí. Tử Nha ra chợ làm thầy bói, gặp con Tỳ Bà
tinh là chị em của Ðắc Kỷ, Tử Nha biết đúng chơn tướng con yêu nọ, nên xin phép
Tỷ Cang thiêu sống nó. Tỳ Bà tinh hoàn nguyên hình cây đờn tỳ bà bằng đá.
Giáo đầu là lời chúc mừng nhà vua.
Sau đó, Dị Nhơn múa mà rằng :
Sông
Hà Lạc, qui trình tám quẻ,
Cửa Võ Môn, cá nhảy ba từng.
Trẻ ngậm cơm ngả ngớn đền Xuân,
Già vỗ bụng chình chòng cõi Thọ,
Miêng Trì là quê ngụ,
Dị Nhơn thiệt tên già !
Tử Nha bèn bước ra, xưng danh, than
thở rằng mình chưa gặp vận. Dè đâu bà vợ là Mã Cơ xắn xả chạy lại mắng Tử Nha:
Bớ
ông Tử Nha này :
Tôi, cầm khỉ không tường khỉ múa,
Còn chăn voi chẳng biết voi lung.
Hay mần răng ! Này tôi nói cho :
Bảo đừng về tiên ngộ tiên khùng
Khá kiếm chỗ ở thuê ở mướn,
Ðể trả tiền đường, tiền đậu cho mụ
đây... à !
Tức quá Tử Nha ra chợ ngồi làm thầy
bói. Tỳ Bà tinh bèn tới thử tài. Biết chân tướng yêu tinh của mình không qua được
cặp mắt thần của Tử Nha, Tỳ Bà tinh bèn tri hô lên vu cáo rằng Tử Nha toan hiếp
dâm nó. Ông trùm xóm hạ lịnh cho dân chúng rượt bắt Tử Nha:
Tốc
bôn trì, tốc bôn trì !
Lai ứng tiếp, lai ứng tiếp !
Lão già nào hãm hiếp, hãm hiếp !
Bắt gái trẻ hoang dâm, hoang dâm !
Quyết sanh cầm, quyết sanh cầm !
Nan dung thứ, nan dung thứ !
Tuồng này nghĩ thiệt lạ, thiệt hay.
Nhiều người ba bốn chục tuổi mới được xem hát bội lần này là lần thứ nhứt. Họ
thức sáng đêm ngồi dưới xuồng, khi mệt mỏi thì nằm xuống. Rồi lại ngồi dậy. Hai
ba đêm đầu, cọp sấu không dám lại vì tiếng trống, phèng la, đuốc lửa.
Việc gì cũng vậy, riết rồi sanh
chán. Xưa kia, ông Từ Thức cưới vợ tiên ở Bồng Lai mà còn đòi trở về dương thế,
hà huống chi xem đoàn hát Bầu Tèo này biểu diễn.
Mấy đứa con nít xem một chập, ngồi
ngủ gục. Chừng trống đánh giựt mình, tụi nó dụi mắt, cằn nhằn: "cái gì mà
tốc bôn trì, tốc bôn trì hoài ! Cả tháng rồi không có gì mới. Cứ con yêu Tỳ Bà
tinh chưn cẳng có ghẻ ngứa..." Tụi nó xúm nhau bơi xuồng về. Hỡi ôi ! Hai
ba ông cọp chạy dài theo bờ rạch ! Thôi thì đành trở vô vòng hàng rào nọ mà chờ
đợi tới sáng.
Cũng chuyến nọ, con Tỳ Bà tinh đang
hát bỗng nhiên mặt mày xanh lét, tay run run chỉ xuống sông rồi chạy trở vào buồng.
Rõ ràng là Tỳ Bà tinh thấy hai con sấu đang ngóng mỏ vô hàng rào. Ông kỳ lão ra
lịnh giông phèng la. Sấu lặn mất.
Lần lần, dân chúng thỏn mỏn về số gạo
đóng góp nuôi đào kép. Ba chục ngày là ba chục vùa gạo ! Ông bầu tìm cách sáng
chế tuồng mới nhưng quanh đi quẩn lại chỉ bấy nhiêu đào kép, bấy nhiêu áo mão.
May thay, lúc đó dân xóm Khoen Tà Tưng có sáng kiến qua xóm Tà Lốc mời mấy người
Miên bên đó đến xem hát trước mua vui, sau nữa là chia sớt gánh nặng lúa gạo.
Người Miên rất đỗi hoan hỷ. Họ giúp sân khấu nọ vài điệu múa "rầm"
lúc sửa soạn vô tuồng. Gần vãn hát, họ đưa lên một anh hề Miên diễu bằng tiếng
Việt Nam. Chuyện diễu của họ như vầy : anh nọ ở bên này sông có cô tình nhân ở
bên kia sông. Không biết cách nào qua được, anh dậm chân :
- Cô Hai ơi ! Sông sâu sào vắn đâm
không tới ! Muốn qua thăm bậu ngặt không có chiếc "re" !
Lúc đầu nghe diễu như vậy ai nấy cười
như nắc nẻ, lần hồi sanh nhàm. Vì vậy, gánh hát bội phải từ từ rút lui qua xóm
gần đó, cách chừng ba chục cây số.
Trời bắt đầu sa mưa. Gánh hát ra đi,
nghĩ cũng hợp thời cho dân xóm này nhưng bất lợi đối với họ. Họ rã gánh lần lần,
lưu lại khắp trong vùng hoang vu này nhiều chuyện hay hay. Dân xóm Khoen Tà
Tưng bị ảnh hưởng của họ đậm quá ! Mấy đứa con nít chăn trâu nhái lại giọng hát
bội, thét lên inh ỏi ngoài đồng :
- Muôn tâu bệ hạ ! Muốn yên nhà lợi
nước, nên trồng đước với dà. Mai sau có hư cửa hại nhà, đốn nó làm kèo làm cột....
- Muôn tâu bệ hạ ! muốn yên nhà lợi
nước, nên trồng đước với su, bắt khỉ đột cầm tù, ắt yên nhà lợi nước...
Có một anh hề trong hánh hát trốn ở
lại. Người đó sau này là ông Biện H. Ông biết chút ít chữa nho. Nhờ ổng mà xóm
này có viết liễn. Nghe đâu chú của ổng hồi trước phò ông Phan Thanh Giản thủ
thành Vĩnh Long. Ổng phải giả danh kép hát chạy xuống miệt này. Trước khi làm
biện ở đình, ổng nổi danh một thời nhờ tài hát huê tình. Ổng nói : phải nhái
theo lời văn của hát bội, thí dụ như : "Cả tiếng kêu... ! Ờ này em Hai ơi
! Sách có chữ Thiện ác đáo đầu..." Thì câu hát mới vui, có tinh thần.
Ý kiến đó được anh chị em hát huê
tình khen là phải.
Câu chuyện hát bội hồi xưa tới đây
cũng khá dài rồi. Nhưng chưa hết, vì còn mấy ông cọp nọ. Có lẽ mấy ổng mê hát bội
hơn loài người. Chừng một hai tháng sau, cái sân khấu nọ tốc nóc, bao nhiêu nọc
tràm làm hàng rào đã lung lay ngả nghiêng trên dòng nước, chừng đó người ta thấy
một đôi ông cọp thường tới lui ngồi cú rũ dựa gốc cây gừa bên bờ rạch. Nhứt là
đêm có trăng, mấy ổng le lưỡi dài thòn, như nhớ tiếc bao nhiêu con mồi ngon,
bao nhiêu tiếng kèn tiếng trống. Biết đâu về sau này mấy tiếng "coi hát cọp"
là do sự tích của mấy ổng hồi xưa, không chừng !
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
namkts57@gmail.com