Kẻ lang thang
Henri René
Albert Guy de Maupassant
Trung Hiếu dịch
Bốn mươi ngày nay, anh đi khắp nơi tìm
việc. Anh đã rời bỏ Ville-Avary ở vùng Manche, quê hương anh, vì nơi đó thiếu
việc. Anh là thợ làm nhà, hai mươi bảy tuổi, người lương thiện, ham làm, anh là
con cả nhưng đã phải ăn bám gia đình mất hai tháng, vì trong tình cảnh thất
nghiệp chung, anh chỉ còn khoanh đôi cánh tay lực lưỡng lại mà chịu thúc thủ.
Trong nhà, bánh mì mỗi ngày một hiếm; hai cô em đi làm công nhật nhưng kiếm chả
được là bao. Còn anh, Jacques Randel khỏe mạnh nhất thì lại chẳng làm gì vì chẳng
có gì mà làm và phải sống nhờ người khác.
Anh đến hỏi ở tòa Thị chính, người thư
ký cho anh biết là có thể tìm được việc làm ở miền Trung.
Anh liền ra đi, mang theo đầy đủ giấy tờ
với bảy quan trong túi, trên vai vác cái gậy, đầu buộc chiếc khăn ta màu xanh
trong đó gói ghém đôi giày thay đổi, cái quần cộc và chiếc sơ-mi.
Và anh đã đi miết không nghỉ, đi suốt
ngày đêm ròng rã, trên những con đường dài vô tận, dưới nắng mưa, mà chẳng bao
giờ tới được cái xứ huyền dịu đâu đâu thợ thuyền cũng đều có công ăn việc làm ấy.
Thoạt tiên anh cứ khư khư giữ ý nghĩ là
chỉ hành nghề của mình vì anh là thợ làm nhà. Nhưng tới công trường xây dựng
nào cũng thế, người ta đều phải trả lời anh là vừa phải cho thợ nghỉ việc vì
không có người đặt hàng, thế là anh quyết định làm bất cứ việc gì tìm được trên
đường vì túi anh đã cạn.
Như vậy, anh đã lần lượt làm thợ đấu,
phu ngựa, xẻ đá; anh đã bổ củi, tỉa cành, đào một cái giếng, trộn vữa, bó củi,
chăn dê trên một ngọn núi, làm tất cả các công việc đó để kiếm lấy vài xu vì có
chịu lấy công rẻ mạt, vừa cái lòng keo kiệt của bọn chủ hay của người nông dân,
anh mới có được việc làm đôi ba ngày.
Giờ đây, từ một tuần nay, anh chẳng kiếm
được việc gì, anh chẳng còn gì nữa. Anh đi xin ăn ở ngưỡng cửa các nhà trên dọc
đường đi, anh sống nhờ mẩu bánh của những người đàn bà phúc đức bố thí cho anh.
Tối
đến, Jacques Randel, mệt lử, chân tay rời rã, bụng rỗng, lòng chán nản, lê chân
đất trên cỏ bên bờ đường – anh dè dặt không dám sử dụng đôi giày cuối cùng của
anh, đôi kia đã hỏng từ lâu. Hôm đó là một ngày thứ bảy vào cuối thu. Những đám
mây xám cuồn cuộn trên bầu trời, nặng trĩu trôi nhanh theo những cơn gió rít
trong lùm cây. Người ta cảm thấy cơn mưa sắp đổ xuống. Vào lúc chạng vạng tối của
đêm trước ngày chủ nhật, vùng thôn quê thật vắng vẻ. Từng chỗ một, trên cánh đồng,
sừng sững những đống rơm đã sạch thóc trông tựa những nấm vàng, to lớn, kỳ dị;
và mặt đất đã được gieo hạt cho năm sau, có vẻ như trơ trụi.
Randel đói bụng, một cơn đói của thú vật,
một cơn đói buộc bầy sói phải nhảy xô ra cắn người. Anh mệt lử, bước thật dài để
bước đi, và đầu nặng trĩu, tai ù, mắt đỏ ngầu, mồm khô khốc, anh nắm chắc chiếc
gậy trong tay với ý muốn mơ hồ sẽ nện túi bụi vào kẻ bộ hành đầu tiên anh gặp
trên đường về nhà ăn bữa chiều.
Anh nhìn xuống hai bên đường, trong khóe
mắt hiện lên hình ảnh những củ khoai đã đào sẵn còn sót trên luống đất đã lật
ngược. Nếu thấy được vài củ, chắc anh sẽ nhặt củi khô, nhóm lửa trong một hốc đất
và anh sẽ ngốn ngấu ngay củ khoai nóng và tròn trĩnh ấy mà anh sẽ nắm một lúc,
nóng bỏng trong bàn tay lạnh giá.
Nhưng mùa khoai đã qua và như hôm trước.
Anh đành gặp một củ cải sống nhổ được trong một luống cây.
Đã hai ngày nay, ám ảnh vì những ý nghĩ
trong đầu, anh rảo căng bước đi vừa lớn tiếng nói một mình. Trước đó, anh chẳng
hề suy nghĩ gì, dồn hết cả tâm trí, cả năng lực đơn giản của mình vào công ăn
việc làm. Nhưng dần dà với sự mệt mỏi, sự theo đuổi gay gắt một việc làm không
tìm ra ẩn ý, những lần bị từ chối, những sự bạc đãi, những đêm hôm thao thức
trên cỏ, những bữa nhịn, sự miệt thị của kẻ có nơi ăn chốn ở đối với kẻ lang
thang không nhà, cái câu hỏi thường đặt ra mỗi ngày: “Tại sao anh không ở lại
quê hương anh?”, sự buồn bực không tìm ra việc cho đôi cánh tay cường tráng mà
anh cảm thấy đầy sức mạnh ấy, sự hồi tưởng đến cha mẹ ở nhà cũng chẳng bao giờ
có đồng xu dính túi, tất cả những cái đó gây nên một sự phẫn nộ cứ dần dần nung
nấu lòng anh, mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút cứ tích lũy thêm và vô tình buột ra
khỏi miệng thành những câu càu nhàu, cộc lốc…
Vừa vấp phải những hòn đá lăn lóc dưới
bàn chân không giày, anh vừa lầu bầu: “Khổ cực… khổ cực… lũ chó má… không có đến
bốn xu… bốn xu trời lại mưa rồi… lũ chó má!...”
Anh phẫn nộ với sự bất công của số mệnh
và anh oán trách loài người, tất cả mọi người, anh phẫn nộ với tạo hóa, với bà
mẹ lớn lao mù quáng, bất công, ác độc và thâm hiểm.
Răng nghiến chặt, anh nhắc đi nhắc lại
mãi : "Lũ chó má!" và nhìn làn khói xanh mong manh từ các mái nhà bốc
lên vào giờ ăn bữa tối này. Và chẳng nghĩ đến một sự bất công khác, sự bất công
này của con người mang tên là bạo lực và trộm cắp, anh muốn bước vào một trong
những ngôi nhà đó, hạ thủ những người ở trong và ngồi vào chỗ của họ ở bàn ăn.
Anh nói : "Giờ đây, ta không có quyền
sống… vì chúng để ta chết đói… mà ta chỉ đòi việc làm thôi…lũ chó má!" Và
cái đau đớn ở tứ chi, trong dạ dày, trong tim, tất cả bốc lên đầu anh như một
cơn say kinh khủng và làm nảy ra trong óc anh ý nghĩ giản đơn này : "Ta có
quyền sống vì ta vẫn thở, vì không khí là của tất cả mọi người. Thế thì không
ai có quyền để ta không có miếng ăn!"
Mưa đổ xuống, một trận mưa phùn, mau hạt,
lạnh buốt. Anh đứng lại và lẩm bẩm : "Khổ cực… còn một tháng đường nữa mới
về đến nhà…". Thực tế, giờ đây anh đang trên đường về, anh đã hiểu rõ là
thà tìm việc làm ở nơi chôn nhau cắt rốn, nơi mọi người biết anh, làm bất cứ việc
gì, còn hơn là lang thang trên đường, ai ai cũng ngờ vực anh.
Nghề làm nhà không ăn thua thì anh sẽ
làm thợ phụ, trộn vữa, thợ đấu, đập đá. Dù chỉ kiếm được hai mươi xu một ngày
thì cũng có cái ăn.
Anh thắt quanh cổ cái mảnh vải còn lại của
chiếc khăn tay cuối cùng để ngăn dòng nước lạnh chảy vào lưng, vào ngực. Nhưng
chẳng mấy lúc anh đã cảm thấy nước thấm qua lần vải mỏng của bộ quần áo và anh
đưa mắt nhìn quanh, cái nhìn lo âu của con người bơ vơ không biết cất giấu thân
mình vào đâu, đâu là nơi ăn nằm, không một nơi trú thân trên đường đời.
Đêm đổ xuống, phủ kín cánh đồng. Anh nhận
thấy xa xa, trên bãi cỏ, một vệt tối om, một con bò cái. Anh nhảy qua hàng rào
bên đường và đi về phía con bò, cũng chẳng hiểu rõ mình định làm gì.
Khi anh tới gần, con bò ngẩng cái đầu to
tướng về phía anh và anh suy nghĩ : "Giá có được một cái bình thì hẳn là
được ít sữa uống".
Anh nhìn con bò cái, và con bò cái nhìn
anh; rồi đột nhiên anh đá mạnh vào bụng con vật, hét lên:
- Dậy, dậy!
Con vật chậm rãi đứng lên, bầu sữa nặng
trĩu lủng lẳng dưới bụng; con người liền nằm ngửa ngay xuống giữa bốn chân con
bò và anh ta mút, mút mãi, rất lâu, hai tay bóp chặt đầu vú căng sữa, âm ấm, phảng
phất mùi chuồng bò. Anh mút mãi, mút đến hết dòng sữa còn lại trong cái nguồn sức
sống này.
Nhưng mưa rơi càng mau thêm, lạnh buốt
và cả cánh đồng trơ trụi không có lấy một nơi trú chân. Rét lạnh người, anh
nhìn ánh sáng lấp lánh giữa hai hàng cây, ở cửa sổ một ngôi nhà.
Con bò lại nặng nề nằm xuống. Anh ngồi
xuống bên con vật, vuốt ve đầu nó, tỏ vẻ biết ơn đã được nó nuôi sống. Hơi thở
đặc sệt và mạnh của con vật từ hai lỗ mũi phì ra như hai luồng hơi nước trong
không khí buổi tối, thoảng qua mặt người thợ làm anh phải thốt lên: "Chắc
mày chẳng lạnh lòng chút nào".
Giờ đây, anh đưa bàn tay sờ ngực con bò,
luồn tay xuống dưới chân nó để tìm chút hơi nóng. Thế là một ý nghĩ chợt đến với
anh: nằm tựa vào cái bụng to lớn ấm áp này ngủ cho qua đêm. Anh liền tìm một chỗ
nằm cho thoải mái và đặt đầu đúng vào cái bầu sữa to lớn vừa đây anh đã bú nó.
Rồi, người mệt lử, anh ngủ ngay tức khắc.
Nhưng, nhiều lần anh thức giấc, lưng hoặc
ngực lạnh toát tùy theo lúc ấy anh áp ngực hoặc lưng vào bụng con vật; thế là
anh lại trở mình để sưởi ấm và hong khô phần người phơi ra sương đêm rồi anh lại
ngủ lại ngay một giấc ngủ mệt nhọc.
Tiếng gà gáy làm anh tỉnh giấc. Ánh bình
minh hé lên; trời đã tạnh mưa; bầu trời trong vắt.
Con bò cái vẫn nằm đó, mõm đặt xuống đất,
anh cúi xuống hôn cái lỗ mũi rung rúc thịt ẩm ướt và nói : "Từ biệt, người
đẹp của ta… lần khác nhé… mi là một con vật tốt bụng… Từ biệt… ".
Anh xỏ giày vào và bỏ đi.
Trong hai giờ ròng rã, anh cứ thẳng đường
tiến bước rồi một sự mệt mỏi chán chường xâm chiếm lấy anh, buộc anh ngồi xuống
cỏ.
Trời đã sáng rõ, chuông nhà thờ bính
boong, đàn ông mặc áo ngoài màu xanh, đàn bà đội mũ chụp trắng, người đi bộ, kẻ
ngồi trên xe, lũ lượt kéo đi trên các ngả đường, tới các xóm làng lân cận, vui
chơi ngày chủ nhật ở nhà bạn bè, họ hàng…
Một bác nông dân to béo đi tới, đang xua
một đàn khoảng hai mươi con cừu, ngơ ngác và kêu be be, có một con chó lanh lẹ
giữ cho chúng đi thành đàn.
Randel đứng dậy, chào bác ta và nói:
- Chẳng hay ông có việc làm cho một người
thợ đang đói không?
Người nông dân, lừ cặp mắt giận dữ, nhìn
gã lang thang không nhà, đáp:
- Ta chẳng có việc làm cho những kẻ tình
cờ gặp trên đường.
Và người thợ làm nhà quay lại ngồi xuống
bên bờ hào.
Anh đợi mãi, ngồi nhìn những người nông
dân lần lượt diễu qua, cố tìm lấy một bộ mặt hiền hậu, thương người để lại tiếp
tục cầu xin.
Anh nhằm một người trông ra vẻ trưởng giả,
mặc áo dài, trước bụng lủng lẳng một sợi dây vàng. Anh nói:
- Tôi đi tìm công ăn việc làm đã hai
tháng nay. Tôi chẳng tìm được việc gì và tôi chẳng còn lấy một xu dính túi.
Cái lão ra dáng trưởng giả ấy đáp:
- Lẽ ra anh phải đọc tờ thông cáo dán ở
đầu làng. Cấm nghề ăn xin ở toàn thể địa hạt này. Anh phải biết tôi là xã trưởng
và nếu anh không chuồn cho nhanh thì tôi sẽ cho tóm anh lại.
Randel nổi giận, lẩm bẩm:
- Ông cứ bắt tôi nếu ông muốn, thà thế
còn hơn, ít ra tôi cũng sẽ không chết đói.
Và anh quay lại ngồi xuống bờ hào.
Quả nhiên mười lăm phút sau, hai tên sen
đầm xuất hiện trên đường. Chúng chậm rãi bước đi, sát cánh nhau trông thật rõ
rang, với mũ da láng, thắt lưng da vàng, khuy đồng lấp lánh dưới ánh nắng mặt
trời như để dọa kẻ bất lương và từ xa, từ rất xa đã buộc họ phải cao chạy xa
bay.
Anh thợ làm nhà hiểu ngay là sen đầm đến
bắt mình. Nhưng anh không nhúc nhích, bỗng nhiên nảy ra ý muốn ngấm ngầm đương
đầu với chúng, để cho chúng bắt đi và để rồi sau này sẽ trả thù.
Hai tên sen đầm đi tới làm ra vẻ không
trông thấy anh, chân bước theo lối quân sự, nặng nề và lắc lư như chân ngỗng. Rồi
bất chợt, khi qua mặt anh, chúng làm ra vẻ như mới trông thấy anh, dừng lại và
chòng chọc nhìn anh, nạt nộ và giận dữ.
Một tên sen đầm bước đến hỏi:
- Anh làm gì ở đây?
Anh
thợ làm nhà bình thản trả lời:
- Tôi ngồi nghỉ.
- Anh ở đâu đến?
- Nếu phải nói cho ông rõ những nơi tôi
đã qua thì phải mất trên một tiếng đồng hồ đấy.
- Anh đi đâu?
- Tới Ville Avary
- Ở đâu thế?
- Ở vùng Manche
- Đấy là quê anh à?
- Phải, quê tôi.
- Tại sao anh lại bỏ nơi đấy ra đi?
- Để tìm việc làm.
Tên sen đầm quay lại bạn đồng đội và với
giọng giận dữ của một người cứ phải nghe mãi những lời dối trá giống nhau, cuối
cùng cũng phải nổi xung lên.
- Cái quân này, chúng nó đứa nào cũng thế
cả. Nhưng ta thì ta còn lạ gì nữa.
Rồi hắn tiếp tục:
- Anh có giấy tờ gì không?
- Có.
- Đưa ta xem.
Randel móc trong túi ra các giấy tờ, các
giấy chứng nhận, những tờ giấy nhàu nát, bển thỉu, rách ra từng mảnh và đưa cho
tên sen đầm.
Hắn ê a đánh vần từng chữ, rồi nhận thấy
giấy tờ hợp lệ, hắn trả lại cho người thợ làm nhà với vẻ bực bội của một gã bị
kẻ láu cá hơn vừa chơi xỏ cho một vố.
Sau một lát suy nghĩ hắn lại hỏi:
- Anh có tiền trong người không?
- Không.
- Không có gì cả?
- Không có gì hết.
- Một xu cũng không có?
- Một xu cũng không.
- Thế anh sống bằng gì?
- Sống bằng của bố thí.
- Thế ra anh đi ăn xin à?
Randel quả quyết trả lời:
- Phải, khi tôi có thể ăn xin được.
Nhưng tên sen đầm tuyên bố:- Tôi bắt anh
quả tang về tội du đãng và ăn xin, không có nguồn sinh sống và vô nghề nghiệp,
lang thang trên đường và tôi ra lệnh cho anh phải theo tôi.
Người thợ làm nhà đứng dậy.
- Đi đâu thì đi.
Và tự mình đứng vào giữa hai tên sen đầm
ngay cả trước khi được lệnh, anh nói thêm:
- Nào, cứ bắt giam tôi lại, ít ra trời
mưa, tôi cũng có cái mái che thân.
Và cả ba người đi về phía làng mà cách
xa một phần tư dặm đường, người ta đã thấy những mái nhà ngói thấp thoáng qua
những hàng cây trụi lá.
Họ đi qua làng vào giờ mọi người đi lễ
nhà thờ. Quảng trường đông nghịt và lập tức hình thành hai hàng rào người đứng
xem kẻ gian phi mà một đám trẻ náo nức theo sau. Nông dân nam cũng như nữ nhìn
con người bị bắt đó, đi giữa hai tên sen đầm, với một ánh hằn thù lóe lên trong
khóe mắt, chỉ muốn ném đá vào anh, lấy móng tay lột da anh, giẫm nát người anh.
Người ta hỏi nhau không biết anh đã ăn cắp, đã giết người chưa?
Gã đồ tể, nguyên là một kỵ binh, quả quyết
nói:
- Nó là một thằng đào ngũ.
Lão đại lý bán thuốc lá tưởng như nhận
ra được cái tên ngay sáng nay đã trả lão một đồng năm hào giả, và lão bán đồ sắt
tin chắc đó là tên giết mụ góa Malet mà sở cảnh sát đã ra công tìm kiếm từ sáu
tháng nay không thấy.
Trong phòng họp của hội đồng xã, nơi những
tên sen đầm đưa anh vào, Randel lại thấy ông xã trưởng, ngồi trước bàn họp,có vị
giáo viên ở bên cạnh.
-
A! – Vị đại diện nhà nước thốt lên, - lại chú mày đây rồi. Tôi đã bảo
tôi sẽ bắt anh mà. Này, thầy đội, sự thể thế nào?
Viên sen đầm trả lời:
- Thưa ông xã trưởng, một tên du đãng
không nhà không cửa, không nguồn sinh sống, không một xu dính túi – theo như lời
khai của hắn – bị bắt đang ăn xin và du đãng, có đầy đủ giấy tờ hợp lệ.
- Đưa các giấy tờ đó cho tôi xem, - ông
xã trưởng nói, ông ta cầm lấy, đọc đi đọc lại, đưa trả rồi ra lệnh – Khám hắn
xem.
Người ta khám người Randel, chẳng tìm thấy
gì cả.
Ông xã trưởng có vẻ phân vân. Ông hỏi
người thợ làm nhà:
- Sáng nay anh làm gì trên đường?
- Tôi đi tìm việc làm.
- Việc làm… trên đường cái à?
- Thì ông bảo nếu tôi cứ rúc ở trong rừng
thì tôi làm thế nào mà tìm được việc.
Hai người nhìn
nhau chằm chằm, với lòng hằn thù của hai con thú thuộc hai loại thù địch. Vị đại
diện nhà nước nói tiếp:
- Tôi sẽ cho thả anh ra nhưng đừng có để
tôi tóm lại anh lần nữa.
Người thợ làm nhà trả lời:
- Tôi muốn ông giam giữ tôi lại thì hơn.
Tôi lang thang mãi đã chán lắm rồi.
Ông xã trưởng tỏ vẻ nghiêm nghị:
- Anh câm ngay.
Rồi ra lệnh cho hai viên sen đầm:
- Các anh hãy dẫn tên này ra khỏi làng
hai trăm thước rồi để hắn tiếp tục đi theo con đường của hắn.
Người thợ nói:
- Thì ít ra ông cũng bảo người ta cho
tôi ăn chứ?
Ông xã trưởng bất bình:
- Lại còn phải nuôi anh nữa kia à? A! Thật
quá lắm!
Nhưng Randel cương quyết nói tiếp:
- Nếu ông cứ để mặc tôi đói, các ông buộc
tôi sẽ phải làm bậy. Các ngài tai to mặt lớn, mặc các ngài đấy nhé.
Ông xã trưởng đứng dậy và nhắc lại:
- Đưa nó đi ngay, không tôi phát khùng
lên bây giờ.
Hai viên sen đầm liền túm lấy cánh tay
anh thợ làm nhà, kéo đi. Anh để mặc và anh lại đi qua làng, trở ra đường cái.
Và khi họ dẫn anh đi khỏi cột cây số hai trăm thước, thì viên đội nói:
- Đấy, cút đi và đừng để cho ta thấy mặt
mày ở vùng này, nếu không thì đừng trách.
Và Randel bước đi chẳng hề đáp lại, cũng
chẳng biết mình đi đâu. Anh cứ thế bước đi chừng mười lăm hai mươi phút, người
mụ mẫm đến nỗi anh chẳng nghĩ đến gì nữa.
Nhưng đột nhiên khi đi qua một căn nhà
nhỏ cửa sổ hé mở, mùi thịt bò hầm bay vào mũi anh làm anh đứng sững lại trước
căn nhà.
Và bỗng cơn đói, một cơn đói dữ dội, cào
cấu, điên cuồng nổi lên, suýt nữa khiến anh lao vào những bức tường của ngôi
nhà như một con vật.
Anh nói to, giọng gầm gừ:
- Trời, lần này thì phải cho ta ăn. - Và
anh liền lấy gậy đập mạnh vào cửa.
Không thấy ai đáp lại, anh đập cửa mạnh
hơn, nói to:
- Này! Này! Này! Có ai trong nhà không,
này? Mở cửa ra!
Chẳng có gì động đậy, thế là anh tiến tới
sát cửa sổ lấy tay đẩy ra và không khí đang bị giam hãm trong nhà bếp, làn hơi ấm
ấm sực mùi thịt hầm nóng, mùi thịt chín với bắp cải tỏa ra ngoài trời lạnh.
Chỉ một bước, người thợ làm nhà đã ở
trong căn phòng. Hai suất ăn đặt sẵn trên bàn. Chủ nhà chắc đã đi lễ nhà thờ, để
trên bếp các món ăn, món thịt hầm ngon lành của ngày chủ nhật với món xúp rau
béo ngậy.
Một chiếc bánh mì mới nằm trên lò sưởi,
giữa hai chai rượu hình như còn nguyên.
Trước hết Randel vồ lấy miếng bánh, bẻ mạnh
miếng bánh như định bóp chết người, rồi anh ta ăn ngốn ngấu, từng miếng lớn một.
Nhưng ngay sau đó, mùi thịt lôi cuốn anh về phía lò sưởi và anh mở nắp xoong,
thọc dĩa vào lôi ra một miếng thịt bò lớn có buộc một sợi dây. Anh còn lấy bắp
cải, cà-rốt, hành đầy ắp đĩa, và sau khi đặt đĩa xuống bàn, anh ngồi xuống, cắt
miếng thịt hầm ra làm bốn, ngồi ăn như ở nhà mình vậy. Khi anh ngốn gần hết cả
miếng thịt bò, thêm một số rau, anh thấy khát và đứng dậy lấy một trong hai
chai rượu để trên lò sưởi.
Vừa nom thấy chất nước trong cốc, anh biết
ngay là rượu mạnh. Mạnh cũng mặc; rượu sẽ làm máu anh nóng lên, như thế càng tốt,
anh vừa mới bị lạnh ghê và anh cứ uống.
Quả nhiên rượu ngon thật, đã lâu anh
không được uống; anh lại rót một cốc đầy nữa và nốc hai ngụm là hết. Và hầu như
ngay sau đấy, anh cảm thấy vui vẻ, phấn chấn vì rượu, tựa hồ một niềm hạnh phúc
lớn đã lọt vào lòng anh.
Anh
tiếp tục ăn, chậm rãi hơn, vừa thong thả
nhai vừa chấm bánh vào nước thịt hầm. Toàn thể làn da trên người anh nóng bỏng,
nhất là trên trán mạch máu đập giân giật.
Nhưng đột nhiên có tiếng chuông đổ hồi từ
xa vẳng lại, báo hiệu buổi lễ chấm dứt; một thứ linh tính hơn là một nỗi lo sợ,
linh tính thận trọng của những kẻ đang lâm nguy dìu dắt và khiến họ trở nên
minh mẫn, buộc anh đứng dậy, anh bỏ vào một bên túi miếng bánh còn lại, nhét
vào túi kia chai rượu mạnh rồi anh rón rén ra cửa sổ, nhìn ra đường.
Đường phố còn vắng tanh. Anh nhảy qua cửa
và tiếp tục đi, nhưng không thấy đường cái mà băng qua cánh đồng đi về phía một
khu rừng anh trông thấy. Anh cảm thấy lanh lẹ, khỏe khoắn, vui vui, mãn nguyện
về việc mình đã làm và người nhẹ nhàng đến mức chân chụm lại cũng chỉ vọt một
cái là nhảy qua được các rào giậu trên cánh đồng.
Tới dưới gốc cây, anh lại lôi chai rượu
ra khỏi túi vừa đi vừa tiếp tục uống, từng ngụm lớn. Ý nghĩ anh bắt đầu lộn xộn
trong óc, mắt lờ đờ, cặp chân co giãn như lò xo.
Anh cất tiếng hát đoạn dân ca cổ xa:
A ha! Đi hái dâu
Thú biết chừng nào!
Thú biết chừng nào!
Giờ đây, anh đi trên nền rêu dày ẩm, mát
rượi, và tấm thảm êm dịu ấy làm cho anh thèm khát điên cuồng muốn nhảy lộn như
một đứa trẻ thơ.
Anh lấy đà, lộn nhào, nhỏm dậy, lại lộn
nhào. Và mỗi lần lộn nhào, anh lại hát:
A ha! Đi hái dâu
Thú biết chừng nào!
Thú biết chừng nào!
Đột nhiên, anh tới bên bờ một con đường
trũng, và trông thấy trong lòng đường một người con gái cao lớn, một người ở
gái đang trở về làng, hai tay xách hai xô sữa, cách xa cô ta bằng một vòng
thúng lớn.
Anh lom khom đi rình người con gái, cặp
mắt sang lên như mắt chó thấy cun cút.
Người con gái nhìn thấy anh, ngẩng đầu
lên, phá ra cười và nói to với anh:
- Chính anh hát đấy à?
Anh chẳng trả lời và nhảy xuống mặc dù bờ
dốc cao ít ra là hai thước.
Thấy anh đột ngột sừng sững trước mặt,
người con gái nói:
- Trời ơi, anh làm tôi sợ quá?
Nhưng
anh chẳng nghe thấy cô ta nói, anh đã say, anh điên lên rồi, sôi sục vì một thứ
điên cuồng khác còn mãnh liệt hơn là cái đói, cuồng lên vì rượu, vì cơn không
cưỡng nổi của một con người thiếu thốn đủ mọi thứ, từ hai tháng nay, của một
con người đang chếnh choáng say, lại đang tuổi thanh niên, hăng hái, khao khát
vì tất cả những sự thèm muốn mà tạo hóa đã gieo rắc vào da thịt cường tráng của
người đàn ông.
Người con gái lùi lại, khiếp sợ bộ mặt của
anh, đôi mắt của anh, cái miệng hé mở của anh, cánh tay anh đang vươn ra.
Anh nắm lấy vai cô ta, và chẳng nói chẳng
rằng, vật cô ta ngã xuống đường.
Cô gái để rơi hai chiếc xô, hai chiếc xô
lăn rầm rầm trên đường, sữa đổ lênh láng, rồi cô ta hét lên nhưng hiểu ngay là
có kêu cứu ở nơi hoang vắng này cũng chẳng ăn thua gì và thấy rõ là anh ta cũng
chẳng có ý muốn giết cô, cô đành nhượng bộ, không khó khăn lắm, không bực tức lắm
vì anh chàng thì khỏe mà thực sự cũng không quá thô bạo.
Khi cô đứng dậy được, nghĩ đến hai xô sữa
đã đổ hết, cô bỗng bừng bừng nổi giận và đến lượt cô, cô rút guốc ở chân ra,
xông vào định đánh vỡ đầu anh chàng nếu anh ta không chịu đền tiền sữa.
Nhưng
Randel hiểu lầm về sự tấn công dữ dội ấy, đã hơi tỉnh rượu, luống cuống, hoảng
hốt trước việc mình đã làm, vội vã ba chân bốn cẳng chạy trốn, còn cô ta thì cứ
lấy đá ném theo, nhiều hòn trúng lưng anh.
Anh chạy mãi, rất lâu, rồi anh cảm thấy
mệt nhoài như chưa bao giờ từng thấy thế. Cặp chân anh mềm nhũn, không còn đỡ nổi
thân hình anh nữa, tất cả ý nghĩ của anh đều lộn xộn, anh không còn nhớ gì nữa
không còn suy nghĩ được gì nữa.
Và anh ngồi xuống một gốc cây.
Năm
phút sau anh đã ngủ thiếp đi.
Anh tỉnh dậy vì có người đánh mạnh vào
anh, và mở mắt ra, anh trông thấy hai chiếc mũ ba cạnh bằng da láng cúi xuống,
hai viên sen đầm buổi sang đang túm lấy anh và trói tay anh lại.
- Tao đã biết chắc là tao sẽ lại tóm được
mày mà, - viên sen đầm giễu cợt nói.
Randel đứng dậy không một lời đáp lại.
Hai viên sen đẩm lắc mạnh anh, sẵn sàng đánh đập anh nếu anh nhúc nhích, vì giờ
đây anh là miếng mồi của chúng, anh đã là của nhà giam, bị kẻ đi săn những tên
phạm tội bắt được và không bao giờ chịu nhả ra nữa.
- Đi, - viên sen đầm ra lệnh.
Ba người lên đường. Hoàng hôn xuống dần,
rải ra trên mặt đất một cảnh chiều tàn mùa thu, nặng nề và ảm đạm.
Nửa giờ sau, họ mới về tới làng.
Tất cả các cửa đều mở rộng, mọi người đều
biết chuyện đã xảy ra. Bà con nông dân, nam cũng như nữ, sục sôi căm giận, như
thể người nào cũng như vừa bị mất cắp, như thể người nào cũng vừa bị hãm hiếp,
đều muốn nhìn mặt cái kẻ khốn nạn để mà chửi rủa.
Tiếng la ó khởi đầu từ căn nhà đầu tiên
mãi đến tòa thị chính mới chấm dứt. Viên xã trưởng cũng đang đợi, cũng đang muốn
trả thù kẻ du đãng.
Vừa thấy anh, hắn hét lên từ xa:
- À, thằng kia! Chúng ta lại gặp nhau
đây rồi.
Và hắn xoa xoa tay, ít khi lại thấy hài
lòng như ngày hôm nay.
Hắn nói tiếp:
- Chỉ trông thấy nó trên đường là ta biết
ngay mà, biết ngay mà.
Rồi càng sung sướng gấp bội hắn nói:
- À, đồ vô lại. À, đồ vô lại khốn nạn,
mày thì cầm chắc hai mươi năm tù rồi.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
namkts57@gmail.com