Đơn Hùng Tín
chào đời
Sơn Nam
Thời Pháp thuộc, đồng bào ỏ miền Tiền
Giang, Hậu Giang đều nghe danh... Đơn Hùng Tín. Anh ta thuộc vào hàng “đại ca”,
điều khiển một số tay anh em giết người cướp của không gớm tay. Lời nói và việc
làm của Đơn Hùng Tín luôn luôn đi đôi. Trước khi đánh cướp, Đơn Hùng Tín báo
trước ngày giờ để cho gia chủ đề phòng. Khi quân cướp rút lui, chẳng ai dám hó
hé tố cáo hoặc truy nã. Du đãng Đơn Hùng Tín thường vượt ngục phá khám hoặc được
quan trên...“tha bổng”. Vì vậy, dư luận cho rằng có nhiều ông hương chức hội tề
hoặc ông cò Tây đã bí mật làm tay chân cho Đơn Hùng Tín vì sợ anh ta, vì tham của
hoạnh tài.
Xưa kia, Đơn Hùng Tín chưa lấy biệt
danh ấy. Anh ta còn là kẻ vô danh, đọc truyện Đường, nuôi chí lớn và chờ thời...
Vùng núi Tà Lơn nổi danh là nơi ẩn nấp
của lắm tay siêu phàm. Lúc phiêu bạt đến đó Đơn Hùng Tín chỉ là một hột cát bé
bỏng. Anh ta thường dạo khắp mấy hang đá cheo leo, hôm ấy gặp một thanh niên ốm
o gầy mòn. Thanh niên hỏi:
- Anh là ai?
Đơn Hùng Tín hỏi ngược lại:
- Còn anh... anh là ai?
Chàng thanh niên bèn mời Đơn Hùng
Tín vào hang đá mà nói:
- Ở đây, người nào cũng như người nấy.
Đứng về võ nghệ mà phê phán thì có hơn chục người sành sỏi, bóp viên đá ra như
cám hoặc nhảy như bay qua miệng hố. Chẳng hay anh bạn giỏi về môn nào?
Để che giấu cái tài hèn đức kém của
mình, Đơn Hùng Tín lại dùng thủ đọan cũ, nghĩa là hỏi vặn:
- Còn anh bạn?
Thanh niên mỉm cười:
- Tôi mới biết sơ qua vài “ấn”. Nè
anh bạn tới thăm tôi trễ, gặp dịp, tôi “triệt” bà cố cho bạn xem mãn nhãn.
Đơn Hùng Tín đâm ra nghĩ ngợi: “bà cố”
là vị thần mạnh nhất, huyền diệu nhứt so với các cô, các cậu đang bay bổng,
phiêu du khắp cõi càn khôn. Người biết bắt ấn, triệt được “bà cố” hẳn phải là
tay dày công luyện tập. Thanh niên nọ cứ day mắt vào vách đá, miệng đọc bùa chú
lâm râm. Để tỏ rằng mình đầy đủ bản lĩnh. Đơn Hùng Tín cố ý khuấy rối sự yên
tĩnh:
- Anh bạn hơi đâu mà luyện tập thứ ấn
thấp kém đó. Tôi đây biết bùa phép và thường triệt “bà cố. ” Chẳng hay anh bạn
triệt kiểu nào?
Theo danh từ nhà nghề, “triệt” tức
là kéo níu. “Bà cố”bay phiêu diêu như chiếc xe mạnh bằng chục mã lực. Triệt “bà
cố,” chẳng khác nào kẻ vận dụng sức lực để níu lại một chiếc xe đang mở máy
phóng tới. Thanh niên nọ vẫn mỉm cười đưa chân mặt ra phía trước rồi cong lưng,
dùng tay trái mà nắm lấy một ngón chân:
- Đại để... tôi làm như vậy. Bà cố
thường vân du, như bánh xe xoay tròn, muôn màu muôn sắc. Lúc tôi bắt ấn, mình mẩy
tôi rêm nhức, đầu óc nóng bừng bừng... Gần đây, còn một lão tổ sư khác thường tới
lui thăm tôi, lão chê tôi làm trò chơi kiểu con nít.
Đơn Hùng Tín bắt đầu e ngại. Trên
dãy núi Tà Lơn này anh ta rõ ràng là bất tài, chưa xứng đáng làm đệ tử của
chàng thanh niên, nói chi đến lão tổ sư. Chàng thanh niên hiểu rõ nhược điểm của
người bạn đang ngồi trước mặt.
Đơn Hùng Tín trố mắt như lao vào một
thế giới vô hình. Từ đây tới điện Cán Dù, mỗi khi trời mưa lắc rắc, ngoài dấu
chân heo rừng hoặc hươu nai, đôi khi thiên hạ gặp ngoài dấu chân nhỏ nhỏ của một
người con gái. Nàng là ai? Càng khó hiểu hơn là những bước chân ấy được in trên
cát xa cách nhau. Dấu chân mặt và dấu chân trái nàng giống hệt dấu của kẻ đi với
đôi hài... bảy dặm.
Mưa bắt đầu rơi, Đơn Hùng Tín rùn
mình hỏi kỷ:
- Thật vậy không?
Chàng thanh niên đáp:
- Nhiều tay tổ sư lập đàn để “triệt”
vong hồn kẻ khuất mặt nhưng nàng vẫn chưa chịu về. Anh bạn mà triệt được nàng, ắt
nổi danh.
- Tôi chưa học tới thứ ấn đó... Đơn
Hùng Tín đáp.
Chàng thanh niên đắc ý, hiểu rằng
người khách lạ có thân hình to lớn ấy đã lọt vào cạm bẫy tâm lý của mình. Chàng
nói tiếp:
- Ở đàng kia, còn một ông lão tài ba
lỗi lạc. Lão ta đang nắm giữ bộ sách “Thiên thư bí quyết.” Anh bạn đọc qua bộ
đó chưa?
Đơn Hùng Tính đáp:
- Tôi nghe sơ qua cái tựa chớ chưa đọc.
Chàng thanh niên cố ý giữ thể diện
dùm cho người khách lạ. Theo lời thuật của anh ta thì ông lão kia học được vài
phép mầu nhiệm trong bộ “Thiên thư bí quyết.” Lão nuôi một con khỉ, mỗi ngày
cho khỉ uống một lá bùa. Uống đến lá bùa thứ bảy thì con khỉ nọ tự nhiên ngã
lăn ra chết. Lão đem xác con khỉ bỏ trong cái hộp bằng cây trầm hương. Đúng
trăm ngày, lão mở hộp ra, cho con khỉ uống lá bùa thú tàm. Khỉ mở mắt, bắt đầu
chạy nhảy lanh lẹ như xưa. Và mỗi ngày khỉ chạy đến chân núi, ăn cắp đúng hai đồng
xư về nạp cho ông lão.
Động lòng tham, Đơn Hùng Tín nói:
- Mưa kế đó mầu nhiệm, nhưng mỗi
ngày có hai xu, ít quá. Con khỉ tuy khôn lanh ngặt nó hành động theo thói tiểu
nhơn, trộm cắp lén lút. Tôi đây muốn làm cách nào... lấy của giữa ban ngày.
- Nghĩa là... ăn cướp:
Đơn Hùng Tín gật đầu:
- Nhưng ăn cướp đâu có nghĩ là làm
chuyện bất lương thất đức. Mình ăn cướp đường đường, bắn súng cho chủ nhà cướp
hay tin trước. Mình ăn cướp tiền bạc của Tây tà, đem phân phát cho kẻ bần
hàn...
Luận điệu dối trá, giả nhân giả
nghĩa ấy bỗng nhiên được chàng thanh niên tán đồng. Thật ra từ bốn năm trường
nay, chàng thanh niên lên núi với hy vọng lập nghiệp. Hồi ở Châu Đốc, chàng ta
làm nghề dạy học rồi bị sa thải vì tội cờ bạc và hút thuốc phiện.
Lên ở ẩn trên núi, chàng ta không đủ
can đảm để luyện phép, tu tiên nhưng vẫn nuôi mộng được làm quân sư cho một kẻ
anh hùng. Hôm nay, gặp kẻ anh hùng “vai năm tấc rộng, thân mười thước cao” như
kẻ đang viếng động, chàng mừng khấp khởi.
Năm sáu ngày ròng rã, Đơn Hùng Tín
ăn ngủ tại nhà chàng thanh niên. Chàng ta giới thiệu:
- Tôi là Giáo Phép, đại ca cứ gọi
tôi bằng em.
Đơn Hùng tín đáp:
- Gặp được chú Giáo, tôi mừng như cá
gặp nước, như rồng gặp mây. Xem qua truyện Tống, truyện Đường, tôi thích có một
người... Đó là Đơn Hùng Tín, người tận trung với chúa. Mai chiều mình làm giàu,
cùng nhau chia cơm xẻ áo.
Giáo Phép nói rỉ vào tai Đơn Hùng
Tín, mặc dầu chung quanh hang đá chẳng có người thứ ba nào rình nghe trộm:
- Mấy ông già tiên ở trên núi... nhứt
định đâu thèm làm đệ tử cho anh em mình. Muốn lập đảng cướp, mình nên qui tụ bọn
người đốn củi dưới chân núi.
Đơn Hùng Tín cau mày:
- Làm sao thu phục họ được? Mình
không biết“triệt” bà cố, ngồi đàn bắt buộc cô gái ma xuất hiện hoặc... nuôi khỉ?
- Dễ quá. Đời vật chất văn minh. Tây
cai trị nước mình được là vì Tây có súng. Mình nên dùng súng để trị súng!
Đơn Hùng Tín lắc đầu:
- Làm sao lập đạo binh chống với Tây
tà được? Thú thiệt với chú Giáo, tôi có mang lên đây một khẩu súng “mút cơ
tông” với ba viên đạn mà thôi.
Giáo Phép mừng quýnh, nói rỉ vào tai
Đơn Hùng Tín ba điều bốn chuyện rồi xin phép đại ca xuống núi vài ngày để mua sắm
vài thứ bùa phép cần thiết, chờ khi phất cờ gióng trống, chiêu quân mãi mã.
Nghe qua, Đơn Hùng Tín cười dòn, vỗ đùi bôm bốp...
Giáo Phép từ Châu Đốc trở về núi Tà
Lơn.
Đơn Hùng Tín mừng rỡ sau khi nghe giải
thích vài chi tiết trong quyển sách khá dày, đóng bìa da:
- Thiệt vậy hả cháu Giáo? Ngày mai
chú xuống chợ Cần Giọt truyền rao, ngày mốt tôi xưng vương, chánh thức ra mắt.
Mười ngày sau nữa, tôi... làm giàu, công ơn chú, chẳng bao giờ tôi quên.
Giáo Phép đắc ý, lật qua lật lại mấy
trang sách:
- Đúng là bộ Thiên thư bí quyết viết
bằng chữ Tây. Bên Tây họ thí nghiệm nhiều lần rồi, ở hội chợ phiên... thiên hạ
kéo tới đông nghẹt, nhiều người ngất xỉu vì ngột hơi thở, vì quá sợ sệt. Huống
chi ở xứ Tà Lơn khỉ ho cò gáy này.
Từ đó đến chiều. Đơn Hùng Tín uống
rượu khá nhiều. Anh ta đem khẩu súng ra chùi cho bóng láng và đếm tới đếm lui mấy
viên đạn. Với chiếc kềm sắt, anh ta tháo đầu đạn, ráp vào rồi lại tháo ra. Hồi
lâu, như chưa vừa ý, anh ta đốt đèn sáp để lấy chất khói đèn...
Giáo Phép xuống núi, truyền rao với
các anh hùng tứ chiếng:
- Sáng mai, mời anh em tới điện Cán
Dù xem Đơn Hùng Tín... thổi bùa.
Ai nấy tỏ vẻ lạnh lùng:
- Chán bùa phép quá rồi. Tụi tui muốn
tìm thứ bùa phép nào... đem lại cơm gạo hoặc tiền bạc để nuôi vợ nuôi con. Chẳng
lẽ tụi tôi lưu lạc tới xứ này để học bay nhảy trên gành đá, tranh tài với loài
khỉ, loài vượn.
Giáo Phép đáp:
- Bùa phép của Đơn Hùng Tín nhứt định
đem cơm gạo vàng bạc cho tất cả các đệ tử.
- Làm bạc giả à? Liệu Đơn Hùng Tín
ăn thua với lính mã tà được không? Đơn Hùng Tín là ai? Ở xứ núi non, tụi tui
nghe nhiều cái danh hiệu nghe điếc con ráy, rốt cuộc gặp toàn những đại ca thuộc
vào hàng “khôn nhà dại chợ”.
Để chứng tỏ mình là kẻ khiêm tốn.
Giáo Phép ngồi xuống, nghe đám anh hùng tứ chiến thuật lại nhữgn trận “hô phong
hoán vũ ” thất bại, lỡ cười lỡ khóc. Nào là Tiết Đinh San... chạy bò càn khi
đánh cướp, bị chủ nhà vây bắt. Chủ nhà nào có tài ba gì đâu cho cam? Đám gia
nhân chỉ hò hét, đốt pháo tre, liệng chai đựng đầy nước mắm. Miểng vẻ chai bể,
dính nước mắm mà ghim vào da thịt thì phải biết! Nó gây thương tích nhức nhối
vô kể.
Lại còn chuyện Tiết Nhơn Quí tự xưng
biết “thăng thiên độn thổ” nhưng khi biểu diễn thì “thăng ” lập tức! Một người
trong đám cử toạ đưa ra “cây dao con chó,” yêu cầu Tiết Nhơn Quí ghim vào da thịt.
Tiết Nhơn Quí ngáp rồi ụa mửa, đôi mắt ngơ ngác, hẹn sẽ lóc từng miếng thịt của
mình cho cử toạ xem... vào dịp khác thuộc ngày lành hơn, tháng tốt hơn và giờ
khác linh thiêng hơn.
Giáo Phép lắc đầu:
- Xưa nay, những người giả thì nhiều
mà những người thiệt thì ít. Tôi là người có ăn học, anh em dư biết... Tôi chẳng
bao giờ sùng bái ai, vậy mà tôi đành thọ giáo với Đơn Hùng Tín. Ông này ghê gớm
lắm...
Bọn anh hùng tứ chiếng đáp:
- Ghê tới mức nào? Ông thuộc vào hạng
người siêu phàm, súng bắn vào không nổ chứ gì?
- Ông giỏi hơn một bậc. Súng bắn nổ
rầm rầm không chết!
- Súng gì?
- Súng “mút cờ tông” của Tây.
- Tại sao ổng không chết?
- Nhờ đọc bộ “Thiên thư bí quyết”. Ổng
luyện tập... mười mấy năm trường ròng rã. Sau khi súng nổ, ổng cười “hề hề”. Ngày
mai đúng vào giờ ngọ, tại điện Cán Dù... Bà con nhớ tới xem cho biết.
Nguồn tin Đơn Hùng Tín sắp hạ san
khiến bọn anh hùng tứ chiếng xôn sao. Họ nói chuyền miệng, kéo tới điện Cán Dù.
Đã từng lưu lạc giang hồ, sống ngoài vòng pháp luật, họ dư hiểu: Nếu phò tá cho
một kẻ súng bắn không chết dĩ nhiên họ sẽ làm giàu. Đơn Hùng Tín sẽ kéo... toàn
đảng, dạo khắp đó đây, từ thôn quê tới thị thành, tha hồ bao vây nhà mấy ông
cai tổng, chận xe đò... hoặc bắt cóc, thủ tiêu vài ông Tây cho biết mặt.
*
* *
Đơn Hùng Tín mặc quần cụt ở trần,
mình mẩy xăm toàn... rồng và chim phụng hoàng. Ngay giữa ngực anh ta, còn có
hàng chữ Pháp, nói lên ý nghĩa cao cả của cuộc phá khám Bách Ti 1789 ở mẫu quốc
xa xôi...Tự Do – Bình Đẳng – Bác Ái.
Anh ta đứng sẵn trên miệng hố:
- Nếu chết thì tôi bỏ xương dưới cái
hố oan nghiệt này để đền tội nói láo với bà con. Tôi biết bà con chưa tin.
Rồi anh ta khoác tay:
- Chú Giáo! Đem cây súng với viên đạn
cho bà con coi trước. Xưa nay, bà con thuờng gặp nhiều vụ bắn súng giả, nào họ
dũa “con cò” súng hoặc xài súng giả, đạn giả.
Giáo Phép trao cây súng “mút cơ
tông” bóng láng cho từng người xem. Và điều này rất quan trọng. Chàng ta đưa ra
một viên đạn bằng đồng. Đầu đạn sáng choang nhọn lễu. Bọn anh hùng tứ chiếng rất
kiêng oai loại súng“mút cơ tông”. Nghe đâu hồi giặc Âu Châu đại chiến 1914 –
1918, Pháp quốc thắng Đức quốc nhờ loại súng thần tốc này. Và anh hùng Phan
Xích Long đòi phá khám Sài Gòn cũng đã bó tay chịu phép khi nhà cầm quyền Pháp
cho nổ chỉ thiên vài phát.
Giáo Phép xin lại cây súng rồi nói:
- Súng thứ thiệt, đạn thứ thiệt. Bà
con còn thắc mắc gì không? Và đằng kia là Đơn Hùng Tín đang ở trần.
Đơn Hùng Tín quát to:
- Cứ bắn cho mau. Tôi đứng cách họng
súng chừng năm thước. Bà con cứ xáp lại gần, cách tôi chừng một thước.
Giáo Phép nạp đạn vào lòng súng
trong khi hàng chục cặp mắt đổ dồn về mấy chữ Tự Do – Bình Đẳng – Bác Ái ... Lồng
ngực của Đơn Hùng Tín phồng lên, xẹp xuống...
Đơn Hùng Tín nhép miệng như đang đọc
thần chú...
- Đùng!
Mùi khói thuốc bay nồng nặc.
Cử toạ rú lên?
Đơn Hùng Tín vẫn đứng sững, sống
nhăn. Và anh ta đang nhe răng cắn viên đạn đồng!
Ai nấy im lặng...
Đơn Hùng Tín nhả ra, viên đạn đồng rớt
xuống đá nghe tiếng “bốc” lăn tròn...
Giáo Phép chạy tới lượm viên đạn,
trao cho cử toạ:
- Thấy chưa! Đơn Hùng Tín... đớp
viên đạn. Viên đạn còn nguyên không móp!
Trong đám cử toạ, có kẻ... như đang
hồ nghi điều gì. Kẻ ấy cầm viên đạn, đưa qua đưa lại để quan sát.
Nhanh như chớp, Giáo Phép nạp viên đạn
thứ nhì, nhắm ngay đầy kẻ ấy mà bắn:
- Chát!
Máu tuôn ra từng giọt trên vách đá.
Kẻ ngạo mạn ấy nghiêng đầu, từ từ ngã gục. Giáo Phép chỉ tay vào mặt hắn:
- Tao bắn... cái vong hồn của mầy
cho mầy thấy! Kìa! Trên vách... mấy giọt máu tươi của mầy. Mầy chưa chết đâu!
Day mặt mà xem...
*
* *
Từ đây oai danh của Đơn Hùng Tín nổi
như cồn. Bọn đệ tử vững bụng rằng“đại ca” của mình thuộc vào hàng “súng bắn
không chết”. Đơn Hùng Tín trở thành vị hung thần của đất Nam Kỳ thuộc địa, gây
nhiều sự bận rộn cho nhà cầm quyền Pháp.
Là kẻ sanh sau đẻ muộn, người viết
bài nầy chỉ nghe thuật giai thoại kể trên. Bộ “Thiên thứ bí quyết” là loại sách
gì? Tại sao anh ta cắn được viên đạn vào miệng?
Lão quân sư Giáo Phép bây giờ ở đâu
để giải đáp?
Tình cờ, chúng tôi đọc được quyển
sách ảo thuật của Yvon Yva, một người Pháp. Sách ấy giải đáp toàn vẹn kỹ thuật
súng bắn không chết của các tay gian đạo sĩ Âu Châu đang áp dụng.
Đại khái, họ nạp vào nòng súng một
viên đạn có cái đầu “ban” giả, đúc bằng sáp. Đầu đạn sáp ấy nhuộm khói đèn nên
giống màu đồng đen. Súng nổ, đầu dạn sáp chảy ra. Và Đơn Hùng Tín đã ngậm sẵn
trong miệng một đầu đạn thứ thiệt, trưng ra sau khi súng nổ. Phát súng thứ
nhì... đổ máu. Đó cũng là viên đạn có đầu “ban” bằng sáp, trong lòng đầu “ban”
chứa son tàu, giống hệt máu.
Có điều chắc chắn là Đơn Hùng Tín và
quân sư Giáo Phép chẳng bao giờ đọc sách của Yvon Yva, sách này mới xuất bản từ
vài ba năm nay. Có thể là Giáo Phép đọc một quyển sách khác rồi nghiệm thêm,
đem ra thực hành với sự góp ý của Đơn Hùng Tín.
Quả thật những người sống “nhàn cư” ở
núi Tà Lơn là những kẻ lợi hại, thông minh hơn... người Pháp.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
namkts57@gmail.com