Đồng Thanh Tương
Ứng
Sơn Nam
Xóm Tà Lốc nằm trơ vơ gần khu rừng
tràm, trên khoảng đất hoang dài gần năm chục cây số ngàn, giữa chợ Rạch Giá và
Hà Tiên, theo vịnh Xiêm La.
Thời
Pháp thuộc, dân chúng xóm ấy sống biệt lập: bắt cá, đốn củi đủ ăn ngày nào hay
ngày ấy. Nếu cần mua sắm vài vật dụng cần thiết, họ ngồi tại nhà mà chờ đợi một
chú Huê kiều. Chú ta quảy gánh gióng, bán nào kim chỉ, lưỡi búa, đường thẻ, thuốc
rê. Đặc biệt nhứt là loại kéo tàu, rèn tại chợ Rạch Giá. Ai không tin thì cứ
mua thử một cây kéo đó, để dành trong rổ may. Kéo sống dai hơn kiếp người, và từ
thưở cô gái mới về nhà chồng, cho tới khi có con có cháu, chết vô hòm mà kéo vẫn
chưa lụt - nếu cây kéo đó không bị đánh mất.
Cách
vài ngày, chú Huê kiều đi qua xóm một lần. Tuy chú ta bán hàng với giá đập đổ,
dân trong xóm Tà Lốc chẳng ai than phiền. Thưở ấy, đường giao thông dường như
không có. Chú ta đi bộ suốt hai mươi
cây số, qua vùng đất phèn đầy muỗi mòng rắn rít và đầy kẻ lương thiện - những kẻ
lương thiện nhưng nổi máu bất lương từng chập. Lắm khi, chú Huê kiều bị gãy
gánh giữa đường thương mãi: hàng hóa và tài sản bị tịch thâu, thân xác chú ta
còn chịu thêm trận đòn nhừ tử, kêu trời thì không thấu, kêu làng lính ở tận đâu
đâu. Thà là nhịn nhục để ngày mai tiếp tục hành nghề. Dân trong xóm lần hồi
thương mến chú Huê kiều. Khi đi qua xóm, chú ta rao hàng nghe lơ lớ, não ruột:
-
Kéo tàu! Ké....éo tàu !
Trẻ
con bu lại, cười giỡn. Chú Huê sẵn sàng cho mỗi đứa một cục kẹo nhỏ rồi rảo bước,
để lại giọng rao:
-
Kéo tàu! Ké....éo tàu!
Nhưng
ánh sáng văn minh lần lần soi rọi bên hè xóm Tà Lốc. Vào những năm kinh tế khủng
hoảng, chính phủ thuộc địa đã cố gắng biểu dương uy thế bằng cách cho xáng múc,
đào con kinh thẳng tắp dọc theo duyên hải vịnh Xiêm La, nối liền chợ Rạch Giá
lên chợ Hà Tiên, phía bắc. Lần hồi, khi đào xong xuôi, lịnh của quan chánh tham
biện chủ tỉnh truyền ra, quan chủ quận liền chạy tờ về làng, làng chạy trát xuống
ấp Tà Lốc.
Đại
ý như sau:
Trát
cho hương ấp Tà Lốc tuân cứ: Tới ngày.... tháng.... năm.... nhà nước làm lễ ăn
khánh thành con kinh quản hạt Rạch Giá - Hà Tiên. Quan Toàn Quyền Đông Pháp
đích thân đi trên tàu, theo con kinh này. Lần đầu tiên, con dân ấp Tà Lộc được
ddón rước trọng thể quan Toàn Quyền Đông Pháp đại thần. Vậy đúng hừng đông nói
trên, dân đinh trong ấp phải tề tựu ngay bờ kinh xáng, tại chợ, gần chỗ bàn
hương án của hương chức hội tề đặt ra. Hương ấp phải truyền rao cho dân trong
xóm được rõ rồi phúc bẩm cho làng biết. Nếu bất tuân sẽ bị khiển trách.
Nhận
được trát nọ, hương ấp Thum đi tới lui thăm viếng từng nhà để vừa uống rượu, vừa
làm công tác. Chú ta mở đầu câu chuyện:
-
Ngày mốt, mình nên đón rước quan Toàn Quyền đại thần. Bà con thấy làm sao?
Ai
nấy nhao nhao phản đối, trình ra nhiều bằng cớ xác đáng:
-Tụi
tôi quần áo lem luốc, tay lấm chơn bùn. Vả lại, chưa đóng giấy thuế thân. Rủi
có bề gì thì... phải làm sao?
Hương
ấp Thum cười khì:
-
Hỏi thử cho biết vậy thôi. Một mình tôi thay mặt tất cả bà con, đủ rồi. Nói chí
tình, nếu bà con kéo nhau ra bờ kinh xáng, đứng khoanh tay gần bàn hương án để
đón rước thì chắc thiên hạ cũng đuổi bà con trở về xóm, trước khi quan đại thần
đến.
Nhưng
dường như bà con trong xóm Tà Lốc hơi buồn phiền điều gì mơ hồ:
-Tụi
tôi chưa được thấy mặt "tây u" và tàu bè tối tân của nước Pháp. Ai
cũng muốn đi cho vui ngặt còn món nợ... quần áo và thuế thân. Chẳng hay quan
Toàn Quyền đại thần có ghé lại xóm mình để uống nước trà.... lấy thảo hay
không?
Hương
ấp Thum đáp:
-
Ghé làm gì?
-
Bộ thầy rảnh lắm sao? Mục đích của ông là tới chợ Hà Tiên cho mau. Nếu mỗi xóm
mỗi ghé thì chừng nào mới tới nơi tới chốn?
Thế
là đêm đó xong xuôi, ai về nhà nấy. Dân chúng nói một câu thòng:
-
Thầy hương ấp cứ vui đi. Tụi tôi leo lên nóc nhà, hoặc trèo lên ngọn cây để coi
tàu của Tây chơi, cho biết....
Hương
ấp Thum quày quả trở lại:
-
Tôi không dám bảo đảm à. Đừng thậm thò thậm thụt như vậy. Ở dưới tàu, có ống
dòm. Họ thấy xa lắm.
Một
người trả lời:
-
Thầy đừng lo. Từ đây ra tới kinh xáng, xa hơn hai chục công đất. Vả lại, tụi
tôi núp sát mái nhà, hoặc đeo dính trên ngọn cây. Ở dưới tàu dòm lên quan Toàn
Quyền đại thần cho rằng tụi tôi là rùa bò trên mồ mả, hay là con dơi, con quạ
đeo nhánh cây.
Đến
nhà việc làng Sóc Sơn, hương ấp Thum nhờ chú biện thảo tờ phúc bẩm. Đại ý,
hương ấp cho rằng dân xóm Tà Lộc bận việc đốn cây, mò cua...v..v.. Hương chức
làng chẳng mảy may phiền hà.
Trong
thâm tâm, họ chẳng bao giờ muốn cho dân trong xóm Tà Lốc đi nghinh đón quan
trên. Đó là hạng người không kỷ luật trật tự gì ráo. Dân chúng xóm chợ gần công
sở cũng khá đông rồi. Thêm vào đó, mỗi tiệm phố đều sẽ treo cờ tam sắc.
Ai
cần gì mời số người ở xóm Tà Lốc, không mợ chợ cũng đông. Trời vừa rực sáng.
- o O o -
Dân
chúng xóm Tà Lốc đã kêu réo nhau inh ỏi:
-
Thức dậy, anh em ơi!
-
Tàu chưa tới mà. Thức thì thức.
-
Tụi mình là "phó thường dân" xứ Nam kỳ, lâu lâu chào mừng quan trên:
Chắc còn lâu lắm. Chừng này mặt trời mới ló dạng. Chắc quan Toàn Quyền đại thần
đang ăn uống tại chợ Rạch Giá. Cỡ bốn giờ, mới tới.
Một
ông lão khôi hài:
-
Thiệt là dị hợm, kinh xáng đào rồi thì... là rồi. Còn bày đặt ăn khánh thành giống
như nhà vua làm lễ hạ điền. Làm như không có ông Toàn Quyền đi thử thì nước
không chảy.
Có
người hô to:
-
Phía chợ vui quá hé?
-
Nóc nhà của tôi mới lợp, cột kèo bằng cây danh mộc... lậu thuế. Ai muốn dưỡng
già thì trèo qua nóc nhà tôi cho vui.
-
Bậy nè! Lớn đầu mà còn dại. Ngồi trên nóc nhà, rồi hút thuốc, nguy hiểm lắm. Tại
sao mình không ngồi trên cháng ba của cây xoài, cao hơn nóc nhà!
Chờ
lâu quá nhiều người đâm ra nản chí. Họ tuột xuống đất, vô nhà uống nước cho thấm
giọng rồi lại trèo lên. Đám trẻ càng xông xáo hơn. Chúng nó ở truồng, lén ra ruộng,
cỡi trâu, đánh thẳng tay cho trâu sãi tới sãi lui. Rồi mòn mỏi, chúng nó nằm ngửa,
phơi nắng trên lưng trâu để chờ đợi, sát kinh xáng trở về xóm.
Chuyện
gì đến là đến! Vào khoảng tám giờ rưỡi sáng, đoàn tàu ăn lễ từ từ tiến tới. Dân
xóm Tà Lốc hò reo, chỉ trỏ. Họ hối tiếc vì đã ngồi nhà. Tàu quá nhiều, chạy
giăng hàng dài treo bông treo tụi đủ màu sắc. Đếm kỹ thì thấy hơn mười cái ống
khói đen ngòm, tức là mười chiếc tàu.
Pháo
đại, pháo tre, pháo trống... nổ vang rền tại chợ. Nổ suốt năm mười phút mà chưa
dứt... Sau một hồi lẹt đẹt thì pháo lại rộ lên như con thú sắp đứt hơi cố gắng
rống lên những tiếng cuối cùng vừa to, vừa dài....
Một
người nghĩ ra sáng kiến:
-
Mấy đứa chăn trâu ơi! Tụi bay thử cỡi trâu, cho trâu sải thật lẹ, coi họ làm gì
ở ngoài chợ.
Vài
đứa trẻ le lưỡi:
-
Ngán lắm. Họ bắt tụi tôi không?
-
Tụi bây là... con chó gì mà bắt. Thứ con nít ở truồng mà tưởng mình như người lớn.
Bọn
trẻ bàn bạc:
-
Mấy ông Tây ưa bận quần áo trắng, đội nón trắng. Tụi mình sợ trâu nó ghét màu
trắng. Nhè trâu chém ông Chánh soái thì nguy.
Một
người lớn quát to:
-
Nói tầm phào hoài. Làm như tụi bây quan trọng lắm. Chưa ra tới đó là thiên hạ
đuổi tụi bây rồi. Cứ ở gần lấp ló, coi lén vậy mà. Hơn nữa, chưa chắc Ông Toàn
Quyền Chánh Soái chịu lên bờ uống rượu đế với ông đại hương cả. Tàu chạy qua rồi
chạy luôn... Không lẽ tàu chạy ngã khác.
Thế
là bọn trẻ mục đồng được yên tâm: "Tụi tôi ham lắm". Mấy người lớn
nhìn theo, căn dặn:
-
Về cho gấp, nói đầu đuôi cuộc lễ cho mấy thằng già này nghe chơi.
Hơn
năm bảy con trâu xóm Tà Lốc sải nhanh ra công sở, mang trên lưng những sứ giả
bé bỏng.
Đột
nhiên, tiếng "súp lê" nổi lên inh ỏi:
-
Tu... tu... Tu!.... uuu....
Dân
xóm Tà Lốc khoái chí, vỗ tay:
-
Đó là quan Toàn Quyền Chánh Soái chào mừng bà con xóm Tà Lốc? Hay quá! Trời ơi!
Khói lên từng cuộn đen thui.... Coi mê quá.
Tiếng
tu tu... cứ vọng rền.
Một
anh chàng có vẻ thông thạo:
-
Luật quốc tế mà! Họ chào mình theo luật quốc tế là cứ súp lê hoài...
Chiếc
tàu dẫn đầu ngừng lại. Mấy chiếc sau cũng ngừng, dường như chẳng dám qua mặt.
-
Đúng rồi! Tàu của quan Toàn Quyền Chánh Soái. Ổng ghé lại chợ....
Một
ông lão thở dài:
-
Các cha ơi. Quan Chánh Soái chào mấy ông hương chức hội tề chớ nào chú ý tới bọn
mình. Đừng hí hởn mà buông tay, té gãy giò nghe các cha. Con nít quá vậy.
Nhưng
bọn người háo thắng vẫn bàn bạc. Họ nghĩ mơ màng đến mấy ông hương chức hội tề.
Nào ông cả Bon, ông chủ Xìa, ông Xã Mực, ông thầy giáo Kiết, ông ban trưởng Huê
kiều - Ông ban Xinh. Tất cả đang cúi đầu, lưng hơi
khom, hột tay đưa ra để đón bàn tay ông Tây. Còn tay kia thì sờ lên ngực, ngay
quả tim già, như để tỏ tình... Pháp - Việt đề huề!
Vài
phút sau, tàu "súp lê" vang dội như để tạm biệt. Từng chiếc một từ từ
di chuyển. Mặt kinh xáng lấp lánh... Mỗi chiếc tàu là một ống khói đen, phun
làn khói mỗi lúc một mỏng mịn. Khói vương vít, bay chập chờn trên nền mây trắng,
che khuất từng chập vài bóng diều quạ.
Bỗng
nhiên một người quát to:
-
Thấy mẹ rồi! Còn một chiếc ở lại. Neo luôn tại chợ. Hay mấy ổng dòm thấy tụi
mình trong này làm điều vô lễ ! Vô lý quá. Kìa....
Từ
phía chợ, bầy trâu phóng nước sãi, trở về xóm Tà Lốc.... Ai nấy phập phồng chờ
đợi. Tin mừng hay tin buồn! Chẳng lẽ quan Toàn Quyền nghe ngóng được tiếng nói
xa xôi của bọn người vô danh núp trên nóc nhà, trên ngọn cây, như rùa bò, như
quạ đậu. Lạ thật. Trên con trâu dẫn đầu, có tới hai người. Một thằng bé và một
người lớn.
Kìa!
Trâu đã tới. Người lớn ấy ngồi vênh váo, như quen như lạ, chưa ai nhìn được hắn
là ai!
Đúng
rồi! Hương ấp Thum. Thầy ta trở về xóm để làm gì mà hấp tấp như vậy. Giống như
mấy ông tướng Tây cỡi ngựa phi báo, cấp báo!
Mồ
hôi tuôn ra nhễ nhãi đầy mặt hương ấp. Vừa nhảy xuống lưng trâu, thầy ta la lớn:
-
Đánh mõ lên cho dân chúng tụ họp. Chuyện sanh tử lắm. Đợi cho đủ mặt, tôi mới
nói, đâu phải chuyện giỡn. Tài sản của nhà nước!
Ai
nấy đều ngơ ngác, tuột xuống đất, ngồi chồm hổm, sắp hàng hai để chờ lệnh.
Gương mặt hương ấp Thum trông vừa đáng ghét vừa tội nghiệp. Bỗng dưng mà thầy
ta lên giọng đàn anh.
Có
người hỏi:
-
Có gì vậy?....
Hương
ấp Thum im lặng, thở hổn hển. Một ông kỳ lão với giọng đàn anh kẻ cả:
-
Cái gì vậy mầy Thum?
-
Dạ... Dân xóm Tà Lốc chưa làm phận sự.
Ông
kỳ lão quát:
-
Phận sự gì? Hay là ông Chánh Soái giận tụi tao, chỉ tụi tao vô lễ, ngồi trên ngọn
cây....
Hương
ấp Thum nói:
-
Dạ, dân xóm Tà Lốc phải ra sức... kéo tàu.
-
Tàu gì mà kéo? Ai nấy giương mắt tròn xoe.
-
Để người ta nói hết cho mà nghe. Số là đoàn tàu của quan Toàn Quyền đại thần bị
trục trặc. Một chiếc bị tắt máy dọc đường, nhờ chiếc khác quăng đổi giòng tới
đây rồi bỏ lại. Chẳng lẽ họ dòng chiếc tàu bịnh hoạn đó lên tới Hà Tiên thì mất
thể diện cho "máy móc" của quan lớn quá, thiên hạ sẽ dòm hành chê
bai. Bởi vậy, chiếc tàu họan nạn đó nằm tại chợ. Thầy hương quản giao cho tôi
nhiệm vụ kéo chiếc tàu đó....
-
Ủa! Sao lại dân xóm Tà Lốc!
Hương
ấp Thum đáp:
-
Dân xóm chợ đã góp tiền, đốt pháo và đóng thuế đầy đủ. Mấy chục năm nay dân xóm
Tà Lốc chưa làm gí ích lợi cho nhà nước. Vậy thì...
-
Kéo lên bờ hay kéo đi đâu? Chiếc tàu đó bao lớn?
-
Dạ... Kéo về chợ Rạch Giá. Bà con nghĩ dùm. Sức một mình tôi làm sao kéo nổi
chiếc tàu sắt về chợ Rạch Giá, xa hơn mười lăm cây số.
-
Bậy nè! Ai hơi đâu mà làm chuyện bá láp. Tại sao mình không kéo chiếc tàu đó vô
bờ mời mấy ông bác vật tới sửa máy. Hoặc chuyến về, mấy ổng dòng tàu về...
-
Dạ, nghe đâu quan Toàn Quyền đại thần đi tuốt lên Nam Vang, về theo nẻo khác.
Bà con nghĩ dùm.
Ai
nấy suy nghĩ: Kéo thì cứ kéo, ngại gì! Nhưng còn cái tội trốn thuế thân, từ nhiều
năm. Nhiều tay tiều đốn củi quá lâu, nhiều chàng thanh niên một vợ ba con...
chưa được hân hạnh ghi tên vô bộ sổ của nhà làng.
-Dễ
quá. Tôi bảo lãnh dùm! - Hương ấp Thum nói.
- o O o -
Thế
là bọn trai tráng sắp hàng, ra bờ kinh xáng để kéo tàu, trước là xem tàu của
quan trên cho biết nó nặng nề đến mức nào, sau là để làm phận sự con dân thuộc
địa.
Chiếc
tàu quá nặng. Mấy sợi dây đỏi sắt cũng không nhẹ. Nước chảy ngược. Gió thổi ngược.
Hơn
năm chục người nai lưng "hố bụi" , đưa chiếc tàu liệt máy nọ về chợ Rạch
Giá. Mệt và đói quá chừng. Kéo tàu sắt khác hẳn chèo ghe. Làm sao thảnh thơi mà
ca vọng cổ. Đến canh một, canh hai đêm ấy, chiếc tàu mới xê dịch được hai phần
ba lộ trình. Cũng may, hương chức hội tề đã chú ý.... ban cho dân ấp Tà Lốc năm
đồng bạc để mua bánh tét, bánh lá dừa. Ăn tạm no. Nhưng làm sao tìm nước uống?
Nước dưới kinh xáng mặn đắng, chua chát quá chừng. Hễ ghé vô là chủ nhà hoảng sợ.
Năm chục người uống hết nửa lu nước!
Nhứt
là chuyến đi bộ trở về.
Dưới
ánh trăng thanh, họ ca hát lai rai. Ai đủ sức thì cứ đi cho nhanh, về nhà cho vợ
con mừng. Ai yếu đuối thì ngủ bờ ngủ bụi. Vài người mang bịnh cảm mạo, bắt gió
vần công. Khổ thay! Mười lăm cây số bận về là cả một điều khổ nhục. Muỗi cắn
quá chừng. Hồi ra đi, họ quên mang theo cái nóp.
Rốt
cuộc, chẳng ai ngủ mê hoặc chết dọc đường. Suốt đêm, họ đi lang thang nhắm hướng
Tà Lốc. Chốn quê hương đẹp hơn cả! Đúng vậy. Vài người chửi rủa hương ấp Thum,
cho rằng thầy ta muốn lập công đầu với nhà nước Pháp. Khi tàu tới chợ Rạch Giá,
hương ấp Thum cút mất, vô quán ăn hủ tíêu một mình. Và lúc kéo tàu, thầy ta ngồi
trên tàu, hò hét, ngồi bên cạnh coi người lái. Khoẻ quá.
Đêm
ấy, vì mình mẩy rêm nhức, dân kéo tàu đánh một giấc ngon lành trên giường thê
nhi.
Nhưng
lúc bình minh vừa ló dạng, từ đầu xóm vang lên tiếng mơ hồ:
-
Kéo tàu! Ké...éo tà...àu!
Ai
nấy nhẩy nhổm, mở cửa sau mà chạy, sau khi... trăn trối với vợ con:
-
Trời! Mới kéo một chuyến mà mệt đuối. Kéo thêm chuyến nữa chắc chết luôn. Má bầy
trẻ nhớ nói rằng tôi đi đốn củi rồi nghe. Tổ cha... thằng hương ấp Thum!
Tiếng
gọi mơ hồ cứ lan xa, rõ rệt trong sương sớm:
-
Kéo tàu.... Kéo tà...àu!
Ngồi
sau khe cửa, các bà hiền phụ nín thở, quan sát, chờ bóng dáng của hương ấp
Thum. Tại sao hắn không đánh mõ?
Nhưng
hỡi ôi! Các bà cười vang. Tiếng "kéo tàu" nọ xuất phát từ cổ họng của
anh Huê kiều quen thuộc, bán kéo tàu, kim chỉ và tặng kẹo ngọt cho trẻ con. Hắn
ngơ ngác, thấy các thân chủ đều đóng cửa, ngủ trưa. Tại sao các thân chủ
"tẩy chay" đột ngột như vậy? Nhứt là các thân chủ ấy còn thiếu chịu của
hắn một số tiền ngày càng to. Hắn bực dọc khi nghe tiếng cười, tiếng chửi thề.
Nhưng hắn trung thành với nghề tổ, hắn cứ rao to, rao cho hả giận để đánh thức
lương tâm dân chúng xóm Tà Lốc!
-
Kéo tàu! Kéo tàu....àu!.....
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
namkts57@gmail.com