Sông Gành Hào
Sơn Nam
Hồi đó ông kiểm lâm “Rốp” được dân chúng
thương mến lắm.
Ông
Rốp có vài đức tánh mà các tay thực dân khác không có. Từ hồi đáo nhậm tại vùng
rừng sông Gành Hào đến giờ, chung qui là hai năm nhưng ông Rốp chỉ đi “rỏn” có
bốn lần. Mổi chuyến đi, mục đích của ông không phải là rình bắt các ghe xuồng
chở củi lậu thuế. Vào rừng ông ngắm nghía từng lá cây, lắng nghe từng tiếng
chim kêu, đập muỗi rồi xem giò, xem cánh từng con. Ông lại còn hái các loại
ráng, dây bòng bong, dây choại, tầm gởi... đem về đồn phơi khô để nghiên cứu.
Cây súng đem theo xuồng cũng chỉ để bắng khỉ, bắn lọ nồi; bắn mà chơi chớ không
cần trúng đích.
Dân
chúng trong vùng sông Gành Hào bàn tán qua lại để tìm hiểu ông Tây khác thường
này:
-
Ông “Rốp” hiền hậu quá! Bà con có biết tại sao không? Ổng thỏ thẻ với thầy
hương quản rằng nhà ổng ở bên Tây nghèo quá mức. Nhờ lập công đánh A Lơ Măn hồi
Âu châu đại chiến nên ổng được phong chức kiểm lâm qua xứ Nam kỳ này. Mẹ của ổng
trồng nho ở cù lao “Cọt” cù lao “Kiệt” gì đó. Phen nọ, bà mẹ đốt đống lá khố, rủi
cháy qua mấy vườn nho lân cận. Thiên hạ đòi bắt thường, kiện tới toà. Bên này,
ông Rốp vô cùng sầu thảm vì không tiền dư gởi vể để cứu nguy, báo hiếu.
Người
khác nói thêm:
-
Phải! Phải! Cha nội nghèo thiệt, hèn chi muốn ở xứ này luôn, đòi ăn mắm sống, tập
nói chuyện “An Nam” rành như tụi mình. Bà con giữ kín giùm chuyện này: phen đ1o
thầy hương quản làm thịt chó rồi nói gạt là thịt nai, mời ổng tới nhậu. Ổng
khen nức nở: thịt nai Cà Mau ăn sao mềm quá.
Một
ông lão tỏ vẻ không bằng lòng:
-
Ông Rốp là người mộ đạo. Gạt như vậy, tội chết. Nghe anh “bồi” nói lại trên lầu
đồn kiểm lâm, ổng có treo tượng Phật. Kế bên là tủ sách văn chương đạo đức,
toàn chữ Tây và chữ nho... Ðêm nào ổng cũng thức đọc sách bằng đèn cầy, tới
khuya.
Rốt
cuộc họ kết luận: Ông Rốp là người nhơn đức, ít làm khó dễ dân chúng, lãnh
trách nhiệm cầm chừng, tuy đang hành sự nhưng cũng như đã về hưu trí, ẩn sĩ qui
điền. Họ càng yên tâm mà tiếp tục phát triển việc phá rừng, đốn củi lậu thuế.
Hôm
đó, cha con của Tư Ðức chở xuồng củi ngang đồn kiểm lâm.
Trời
tối như mực, sắp chuyển mưa to, ngửa bàn tay cũng không thấy. Trên đồn yên lặng.
Ánh đèn vàng vọt chiếu ra ngoài cửa sổ hé mở.
Bên bờ sông, một giọng lơ lớ, sửng sốt:
-
Ghé lại! “Chéc” ghe hay là con “xấu”?
Tư
Ðức điếng hồn, nhận ra được giọng của ông kiểm lâm Rốp. Trời đất hỡi! Quá nửa
đêm giờ Tí rồi mà ổng còn làm gì dưới bến này? Chú Tư Ðức nín tiếng, toan bơi lẹ
cho qua khỏi ải. Ngặt ông Rốp trên bờ nói lần nữa:
-
Con “xáu” hay là “chéc” ghe. Ông lớn bắn đà!
Ðốn
củi lậu thuế nào phải tội nặng đáng xử tử, lỡ bề gì, chết cũng lảng quá! Cực chẳng
đã, chú Tư đành lên tiếng:
-
Chiếc ghe, quan lớn ơi... Tôi đi rước mụ cho vợ đẻ. Xin quan lớn cho tôi đi.
Ông
Rốp càng trầm tĩnh:
-
“Chéc” ghe thì ghé lại! Thầy đội đâu rồi! Ðem đèn xuống coi thử...
Bước
lên bờ, chứ Tư Ðức năn nỉ ỉ ôi, xin tha tội một phen, thề nếu tái phạm thì ở tù
rục xương cũng cam đành. Ông Rốp lắc đầu, ra lịnh quăng củi lên bờ, kéo xuồng
vào tận “phú de” sát vách đồn. Ðêm đó, báo hại hai cha con chú Tư Ðức phải ngủ
trần, tay đập muỗi lia lịa, trí óc buồn đã nhớ đến ngày mai đen tối thiếu gạo nấu.
Và đứa con trai đang đau bịnh rét rừng.
Sáng hôm sau, ông Rốp bảo chú Tư Ðức cứ về
nhà, chờ ngày trát đòi đến đóng tiền phạt vì đây với là lần phạm tội đầu tiên
thôi. Chú Từ bèn làm núng:
-
Chết thì tôi chịu chớ tôi thề không đi về. Cha con tôi không có nhà cửa gì ráo.
-
Vậy chớ mọi khi chú ăn cơm tại đâu, ngủ tại đâu?
-
Dạ thưa ăn tại xuồng này, ngủ tại xuồng này. Nó là cái nhà của tôi.
Như
động lòng trắc ẩn, ông Rốp suy nghĩ rồi nói:
-
Xứ này thiếu gì cây để cất nhà, thiếu gì lá để lợp nhà. Chú làm biếng, không chịu
tạo lập.
Chú
Tư Ðức cố nén cơn giận:
-
Bởi vì tôi không có đất, quan lớn thương dùm. Tôi đã cất nhà nhiều lần rồi mà ở
không yên. Ban đêm hai cha con tôi phải thức quá khuya, quan lớn cũng thấy. Chịu
đựng mưa gió muỗi mòng, đâu phải là làm biếng sợ cực!
Có
lẽ nhờ câu nói khảng khái ấy mà cha con Tư Ðức được ông Rốp cho ở đâu tại nhà
dưới của đồn kiểm lâm, cơm ăn không tính tiền, bù lại hai cha con phải làm cỏ,
quét nhà. Tội nghiệp thằng nhỏ con trai của chú Tư! Mấy viên “ky ninh” của ông
Rốp không chặn được cữ rét hằng ngày hoành hành nó. Nó khóc đồi trốn về rừng.
Buổi trưa không ngủ, nó lấy than bếp vẽ lên vách tường nào là hình xe hơi, hình
con chim, hình cọp, hình sấu... báo hại chú Tư phải lau chùi sạch sẽ, e ông Rốp
thấy mà bị rầy to.
Ðứa
con trai khóc sụt sùi:
-
Mình phải về, ba à!
Chú
Tư chép miệng:
-
Ở đây có cơm ăn qua ngày. Con đừng lo. Ổng đuổi mình, mình cũng không thèm về.
Thằng
bé không hiểu cha nó đang suy nghĩ mưu kế gì.
Lâu
ngày rồi quen, hằng đêm chú Tư Ðức được phép lên phòng riêng của ông Rốp để
châm nước pha trà. Ngạc nhiên làm sao, trong phòng nọ toàn là sách vở, tranh ảnh!
Trên vách treo nào là sừng nai, da cọp, cây tằm gởi, hình Phật Thích Ca ngồi
thiền dưới cội bồ đề. Ngay trước mặt ông Rốp là tấm bản đồ lớn, ghi nhiều mũi
tên xẹt qua lại. Bên dưới bản đồ có tấm hình hai người mặc áo rộng màu vàng: họ
quì gối đâu mặt lại, chắp tay xá lẫn nhau.
Ðoán
sự tò mò của chứ Tư Ðức, ông Rốp hỏi:
-
Biết hình gì đây không? Quí lắm đó.
Chú
Tư Ðức đáp:
-
Dạ, chưa biết vì hồi nào tới giờ tôi không được vô trường mà ăn học.
-
Chú theo tín ngưỡng nào?
Chú
Tư suy nghĩ hồi lâu:
-
Tôi chưa hiểu hai tiếng tín ngưỡng nghĩa là gì. Tôi tin Trời, tin Phật, thờ cha
kính mẹ, quí mến ông già bà cả. Lại còn việc cúng vái mấy ông cọp, ông sấu. Ðất
có Thổ Công, sông có Hà Bá.
-
Nhiều thứ quá vậy. Tôi hỏi cái đạo kia. Chú theo đạo gì?
-
Dạ, theo cha mẹ tôi nói lại thì người “an Nam” mộ đạo Phật. Tôi cũng như cha mẹ
tôi.
Ông
Rốp cười đắc chí:
-
Nghĩa là chú Tư theo đạo Phật. Tốt lắm. Theo đạo Phật mà sao không biết hình
này? Ðó là ông vua Hy Lạp tên Mi Lanh Ða hỏi kinh với pháp sư Ấn Ðộ tên Na Ga
Sơ Na. Vua Hy Lạp phục tài của thầy tu Ấn Ðộ, thầy tu Ấn Ðộ phục tài của vua Hy
Lạp. Hai người chắp tay xá lẫn nhau. Họ đối đáp hay lắm, ghi lại thành một bộ
kinh đây này...
Ông
Rốp bèn rút trong tủ hai ba cuốn sách hơi dày mà nói tiếp:
-
Chữ Phạn gọi nó là “Mi lanh đa băng ha”. Chữ nho dịch lại... là Na Tiên Tỳ Kheo
Kinh. Na Tiên là dịch âm lại tên thầy tư Ấn độ Na Ga Sơ Na.
Mấy
tiếng “Băng ha, xơ na” khiến chú Tư Ðức rối trí quá. Chú cố gắng nhớ lại trong
chuyện Tàu những đoạn nói về Ấn Ðộ, tứ là nước Thiên Trúc.
-
Sao trong Tây Du không nghe nói vậy ông?
-
Trước Tây Du của thầy Huyền Trang cỡ tám chín trăm năm lận! Hồi 150 năm trước
Thiên Chúa, phía bắc Ấn Ðộ có mấy ông vua Hy Lạp cai trị, giống như người Pháp
cai trị An Nam bây giờ. Hồi đó, người cai trị với người dân bổn xứ thương nhau.
-
Tại sao vậy, quan lớn?
-
Tại người dân bổn xứ tài giỏi quá, đâu phải như người An Nam bây giờ. Bây giờ
không còn cảnh đó nữa! Thí dụ tôi là vua Hy Lạp từ Âu Châu tới, chú là thầy tu Ấn
Ðộ bị tôi cai trị. Chú có điều gì giỏi hơn tôi đâu mà hàng dạy lại tôi.
Chú
Tư Ðức buồn bực vô cùng khi thấy ông kiểm lâm Rốp khinh rẻ người Việt Nam ra mặt.
Phận vậy, đành chịu vậy, biết sao bây giờ! Cãi lại thì rất nguy hiểm, ngoài tội
ăn cắp cây rừng của nhà nước, chú có thể mang thêm tội làm “quốc sự”!
Hằng
đêm, ông Rốp thức đến canh ba để đọc sách.
Ðưới
này, chú Tư gác tay lên trán suy nghĩ liên miên. Ông Rốp có mòi mến chú hơn trước,
bằng có là ổng bố thí cho cái mùng và chiếc áo bành tô cũ! Lúc đứa con trai ngủ
say, chú Tư thường ra sân, nhìn trở lại ngọn đèn cầy mà ông Rốp đốt lên để đọc
sách trên lầu. Chú lẩm bẩm, phì cười một mình:
-
Tại ổng thức đêm đọc sách Phật cho nên mình mới bị bắt giam như vầy. Ðêm đó, có
lẽ ổng suy nghĩ một chuyện xưa tích cũ “ga xơ na, ma lanh đa” gì đó. Suy nghĩ
không ra, ổng mới đi dạo như mình đang đi bây giờ. Rồi ma đưa lối, quỉ dẫn đường,
ổng nhè gặp xuồng củi lậu của mình. Cái việc cầu đạo của ổng có hại cho bá tánh
vì dục vọng của ổng còn quá nhiều.
Gió
thổi hiu hiu. Dừa nước bên bờ sông uốn éo, vang lên rào rạt. Ðằng xa, một vật
gì từ từ nổi lên, đi ngược giòng nước đang chảy xiết. Chú Tư Ðức nghĩ:
-
Thằng cha nào ngu quá! Xe trước gãy bánh, xe sau phải tránh. Ðêm trước, cũng
vào giờ này mình đi ngang qua đây bị rình bắt. Bộ họ chưa hay biết sao vậy kìa?
Nhưng
dường như vật nó không phải là chiếc xuồng; khi thì nó thối lui, cập vào bờ,
khi thì tiến tới, day ngang qua, chậm chạp. Khúc cây chăng? Thây ma chăng? Vô
lý! Nếu vậy thì nó theo nước xuôi, mất dạng rồi. Ðằng này, nó từ từ trôi ngược.
Chú Tư Ðức cố nhướng mắt chấp chóa như muôn ngàn con đom đóm đậu khít nhau. Và
trước mũi của chiếc xuồng quái dị nọ. Hai tia sáng xanh ngời rọi tới như hai
cái đèn “bin”. Nghi ngờ gì nữa! Nó là con sấu lửa mà chú Tư thường nghe mấy người
đóng đáy nói lại. Hồi đó, chu Tư không tin. Bây giờ chú đã thấy tận mắt con sấu
thần đó.
Thiên
hạ nói sấu ấy đi có cặp. Tu luyện hàng trăm năm rồi, nước mặn đóng trên da nó một
lớp dày, sáng chiếu lên như nước biển, đêm có trăng. Người thì cãi lại, bão rằng
đó là ánh sáng của các cô hồn bị sấu ăn thịt.
Chú
Tư Ðức phập phồng trong dạ, vừa mừng vừa sợ. Có lẽ ông Rốp đã nghe nói đến cập
sấu thần này nên quá bị ám ảnh, hôm nọ ông hỏi chú: “Chéc” ghe hay là con
“xáu”! Chú vào đồn kiểm lậm, lập tức đốt đèn lên. Chú lục mấy cái hũ để tìm nếp.
Không có nếp, chú hốt tạm vài nắm lúa, bắc chảo lên bếp nhúm lửa mà rang.
Lúa
nổ ra trắng phếu, nhảy tưng bừng trong chảo, văng tứ phía.
Chú
Tư Ðức bước ra sân, khấn vái lâm râm rồi thảy mấy hột nổ ấy khắp tám hướng đen
ngòm:
-
Ngay cô hồn các đẳng. Sống thì khôn, thác thì thiêng. Những ai xa cây, xa cội,
xa nhành, đầu bãi cuối gành, hùm tha sấu bắt... Tôi tên là Ðức, họ Trường, tuổi
Dần.
- o O o -
Thầy
hương quản tất tả chạy vào đồn mà hỏi rối rít:
-
Ông kiểm đâu rồi? Có ở nhà không?
Chú
Tư nói:
-
Dạ có, ổng đọc sách trên lầu.
Tức
thời, thầy hương quản đến chào ông Rốp rồi trình bày:
-
Sấu cỡ này lộng quá rồi! Hôm kia nó đập đuôi nhận chiếc xuồng trên đó có hai mẹ
con. Mẹ mất xác, đứa con gái bị táp cụt chưn.
Ông
Rốp hoảng hốt:
-
Dữ quá vậy! Con “xáu” là thú dữ. Bên Phi Châu, bên Ấn Ðộ cũng có nó. Người Ai Cập
hồi xưa sợ con “xáu” ăn thịt nên tôn thờ nó.
Thầy
hương quản nóng ruột quá:
-
Nhưng mà bên nước mình, tại sông Gành Hào này, nó giết người.
Ông
Rốp cảm thấy áy náy:
-
Nó giết người dưới sông. Thầy hương quản nên ra lịnh khuyên dân chúng tạm ngưng
việc lưu thông dưới sông. Như vậy tiện hơn.
Thầy
hương quản nói:
-
Dạ không được. Không lui tới dưới sông, dân chúng phải chết đói hết. Lại còn
ghe xuồng từ xứ khác tới, làm sao họ biết mà đề phòng. Người ở trên bờ cũng bị
sấu táp nữa kì.
-
Sấu chạy lên bờ à?
-
Hôm qua, sấu nổi lên lần nữa. Cô gái nọ ngồi rửa chén dưới bến, bị sấu táp,
rinh luôn cái cầu thang. Hồi lâu, sấu nhả ra, cô nọ tỉnh trí lội vào bờ.
-
Làm sao bây giờ, thầy hương quản?
-
Khó lắm, ông kiểm ơi! Dân chúng trông cậy sự bảo hộ của nhà nước Tây trong lúc
này. Mình phải giúp họ.
Ông
Rốp nhìn mấy cuốn sách bìa da mạ chữ vàng trong tủ rồi lắc đầu, thở dài:
-
Trong sách không có nói tới. Mình cứ bắn nó thử. Cây súng của thầy đâu rồi? Bì
đạn còn không? Tôi cho thầy mượn cây súng trận của tôi.
Thầy
hương quản tỏ vẻ thất vọng. Thầy dư hiểu rằng súng đạn khó mà bắng lũng da con
thú nọ. Không khéo, nó bị thương rồi trở nên hung tợn hơn trước. Hơn nữa làm
sao mà bắn nó? Phải đứng dưới ghe. Nghĩ tới đó, thầy sợ quá, muốn nhường vai tuồng
anh hùng nọ cho ông Rốp:
-
Tôi bắn dở lắm, ông kiểm lâm à. Ông từng đánh giặc A Lơ Măn, cầm súng giỏi hơn
tôi, ông phải trổ tài mới được. Hồi nào tới giờ tôi chỉ quen cây “cà líp xây”,
nó yếu lắm.
-
Chiều nay, tôi sẽ tính.
Ông
Rốp tạm trả lời như vậy để tống khô thầy hương quản một cách khéo léo. Ông rất
sợ sấu, đó là nhược điểm của trời phú cho. Ðó cũng là nguyên nhơn khiến cho ông
ít dám đi “rỏn” bắt củi lậu thuế; do đó dân làng tưởng lầm rằng ông là kẻ nhơn
từ.
Ðứng
trước tình trạng khó xử đó, ông chợt nghĩ đến Tư Ðức, hy vọg rằng “muôi quân ba
tháng, dụng quân một ngày”.
Chú
Tư Ðức nói với ông:
-
Việc đó không khó cho lắm. Từ mấy bữa rày, tôi có ý mong chờ để ra tay. Có hồn
đã hiện về báo tin cho tôi biết. Dè đâu, sấu này dữ tợn quá vậy!
-
Chú hay trước à? Chú có phép? Tôi không tin.
Tư
Ðức bèn dẫn ông Rốp ra sân, chỉ mấy hột nổ rải ra khắp hướng, đêm hôm trước.
Ông
Rốp gật đầu hỏi tiếp:
-
Bây giờ mình làm thế nào?
Tư
Ðức hỏi ngược lại:
-
Tôi là kẻ quê mùa. Ông cần dạy tôi trước chớ!
-
Tôi kiếm chiếc ghe thật lớn. Chú Tư chèo sau lái; tôi đứng trước mũi, rình bắn
nó. Ðược không?
Chú
Tư Ðức mỉm cười:
-
Sấu lâu lâu mới nổi lên một lần. Biết nó nổi ngay khúc sông nào, đúng giờ phút
nào mà rình. Chứng hay được thì nó lặn mất. Nếu nó không lặn mất thì...
Chú
Tư cố tình không nói dứt. Ông Rốp nhướng mắt:
-
Thì sao?
-
Thì nó quật đuôi, ghe phải chìm. Sấu này dài ít nhứt năm thước. Ðứa con nít có
thể ngồi chàng hảng cưởi trên đuôi của nó được. Lớn lắm! Nó nhai luôn cây súng
của ông. Sấu đội đèn mà!
Ông
Rốp hoảng hồn, chú Tư Ðức nói tiếp:
-
Ðể đó cha con tôi trị nó. Miễn là hương chức làng giúp chừng vài trăm cây tre
là bè. Mồi thì dùng heo, chó. Dân “An Nam” xưa nay bắt sấu không cần súng đạn,
họ bắt sấu từ hồi Tây chưa qua lận kìa! Phải là thứ sấy nhỏ, tôi lặn xuống
sông, bắt lên trong nhấp nháy cho ông coi chơi.
-
Cách nào?
-
Tôi móc con vịt cô lưỡi câu rồi tôi đúng dưới nước, cầm đầu sợi dây. Chừng sấu
lại ăn mồi vịt, tôi lặn xuống đáy sông, đi vô bờ, ghịt đầu dây vào gốc cây mà
kéo con sấu nọ lên. Cặp sấu dưới sông kỳ này lớn lắm. Ông cho phép tôi về rừng
đem vài món đồ nghề lại. Ông nhắc thầy hương quản cho tôi xin chừng bảy trăm
cây tre và bốn người dân phụ sức.
Tre
đốn về, Chú Tư Ðức nhờ bà con kết một cái bè thật to, trên dựng hai cái thang,
cao chừng ba thước.
Năm
sáu lưỡi câu sắt đã buộc vào chung quanh; trên sàn bè, chú Tư xây cái chuồng nhỏ
trong có để hai con heo, một con chó. Nóc chuồng có rơm, lá dừa che lại kỹ.
Hai
hôm sau, chú nói:
-
Mời quan lớn, thầy hương quản và anh em quen biết xuống bè làm lễ. tới giờ rồi.
Ông
Rốp hỏi:
-
Lễ gì?
-
Dạ, lễ cúng cô hồn.
Heo
nọ thọc huyết ra để tế cô hồn. Chú Tư rảy hột nổ khắp sàn và trên mặt sông.
Nhang đen tỏa nghi ngút. Chú bèn đánh lên ba hồi mõ. Xác con heo nọ bị móc vào
lưỡi câu, thả xuống.
-
Bây giờ thì mời quan lớn lên bờ. Nếu quan lớn muốn đi theo cũng được.
Ông
Rốp nói:
-
Thôi... tôi ở trên bờ ghi chép. Bậy quá! Ở đây mình không có máy chụp hình, tôi
muốn chụp làm kỷ niệm để gởi về bên Tây. Cái bè này sao giống chiếc tàu binh ở
Âu Châu quá. Hai cái thang bắc cao lên coi như cây cột dây thép gió.
Ông
Rốp, thầy hương quản lần lượt vỗ vai, “bủa xua” hai cha con chú Tư. Chú hút thuốc
rồi hỏi đứa con trai:
-
Thúng cơm khô con có đem theo không?
Nó
đáp:
-
Dạ có.
-
Nhiều hay ít vậy con?
-
Nhiều lắm. Ðủ ăn ba bốn người. Con có mua chịu cho cha một lít rượu.
Ðứa
bé trao chuyền qua Tư Ðức bốn cái ống tre đựng đầy ngọn mun (lao sắc). Phần nó
thì cầm cái mỏ bằng tre.
Ngày
qua, ngày lại.
Chiếc
bè trôi lên trôi xuống theo nước lớn nước ròng. Hai cha con Tư Ðức ngồi cú rũ
bên chuồng nọ. Thỉnh thoảng, chú nhắc chừng thằng bé, bảo nó chọc cho con heo,
con chó kêu lên.
Trên
này, ông Rốp mãi theo dõi, nhưng lần lần thất vọng. Qua ba ngày sau, miếng mồi
(con heo) đã sình nổi lên, diều quạ, kên kên bu lại kêu ỏm tỏi, chú bèn thọc
huyết con heo còn lại mà thay vào.
Con
chó sủa ngày một thỏn mỏn, vì mệt, vì đói.
Ðã
đến ngày thứ tư. Mặt trời chưa mọc, ông Rốp bỗng giựt mình thức dậy vì tiếng mõ
nổi lên inh ỏi.
Ông
lập tức xuống lầu, chạy lại mé sông nhưng nào thấy gì đâu! Sương mù chưa tan,
chỉ nghe dưới sông tiếng ồ ồ như bầy trâu đang lôi. Ông thủ cây súng trận nạp đạn
vào nòng, chờ bóp cò.
Thầy
hương quản đã đến:
-
Ông kiểm ơi! Nó mắc câu rồi! Ông có nghe tiếng mõ không?
Rồi
thầy quát to:
-
Hương ấp đâu? Hương tuần đầu? mấy người chạy khắp xóm mà truyền rao mỗi nhà phải
đánh mõ, đánh trống lên... Không thì đập xuống ván ngựa, đánh vô mâm thau, nồi
đồng gì cũng được. Mình phải tiếp sức với hai cha con Tư Ðức!
Nắng
lên cao.
Tiếng
mõ dưới sông càng thúc giục. Rõ ràng cha con Tư Ðức đang đứng chót vót trên hai
cái thang, lú khỏi mặt nước. Chiếc bè đâu không thấy. Hai cái thang nọ chạy tới
hàng trăm thước, đứng sựng lại rồi vụt chạy lui, nhanh hơn tàu đò.
Tư
Ðức cầm ngọn lao, hờm sẵn. Ðứa con đứng kế bên gõ vào mõ lia lịa. Hai cái thang
lắc qua lắc lại như cột buồm ghe bị bão, vậy mà họ không té. Chập sau, cách chiếc
bè chừng năm mươi thước, con sấu mắc câu bỗng nổi lên thoi thóp, dài như chiếc
ghe độc mộc.
Chiếc
bè từ từ nổi lên.
Dân
chúng hai bên bờ la lớn:
-
Nó kìa! Trời ơi! Làm sao giết nó mau.
-
Mình phải tiếp sức với Tư Ðức.
-
Trời thần ơi! Thằng nhỏ con của Tư Ðức gan dạ quá. Thiệt cha nào con nấy!
Ông
kiểm lâm Rốp liền nói với thầy hương quản:
-
để tôi bắn con sấu!
Thầy
hương quản vô cùng e ngại:
-
Không nên! Quan lớn đừng làm vậy! Sấu hoảng hồn chạy mạnh quá đứt dây đỏi thì
sao?
Một
người phía sau nói với tới:
-
Sợ bắn không trúng con sấu mà nhè bắn trúng sợi dây! Báo hại công trình của người
ta chịu cực mấy ngày rày.
Thầy
hương quản day lại:
-
Ðứa nào đó? Ðừng nói bậy. Ông kiểm lâm ổng buồn.
Hằng
chục người, một tiếng thét to:
-
Giết chết nó đi!
Mặc
dầu bị nước văng lên, mình mẩy ướt loi ngoi lóp ngóp, chú Tư đức vẫn tỉnh táo
phóng xuống lưng con sấu một ngọn lao.
Sấu
nó hụp xuống, ghì chiếc bè khuất dưới nước.
Hai
cha con Tư Ðức đứng cheo leo trên thang mà chờ, ngọn lao khác hờm sẵn nơi tay.
Ông Rốp há miệng, nói với thầy hương quản:
-
Hay quá! cái bè này giống chiếc tàu lặn đó. Khuất hết chỉ còn hai cái thang.
Chưa
dứt lời, sấu nó nổi lên, uốn éo đập đuôi đùng đùng. Ngọn lao ghim trên lưng nó
khi nãy đã văng đâu mất!
Tư
Ðức hươi tay lên phóng xuống ngọn lao khác. Rối không đợi nó lặn xuống, nhanh
như chớp, chú phóng thêm ngọn nữa, cũng ngay lưng.
Sấu
ta lại chìm.
Nhưng
từ phía xa, một con sấu lạ hiện ra, lội nhanh tới sát hai cái thang của cha con
Tư Ðức. Ai nấy rú lên:
-
Sấu đực chạy lại tiếp sấu cái. Coi chừng nó nghe chú Tư!
Thầy
hương quản la lớn:
-
Ðánh trống, đánh mâm thau cho nó sợ. Bà con mình cứ đứng co hoài, quên hết phận
sự. Tệ quá!
Một
mình mà đối phó với hai con sấu! Tình thế của chú Tư Ðức càng nguy nan! Lợi hại
nhứt là con sấu mạo hiểm vừa xuất hiện đến cứu bạn. Nó còn sung sức, dám đánh bạo
lại sát bè. Miệng nó đỏ hói, hàm răng dài như lưỡi cưa. Bình tĩnh, chú chờ nó lại
gần.
Hai
cây lao phóng xuống.
Sấu
ta quay mình lại, đập đuôi thật mạnh vao hai cái thang. Hai cha con Tư Ðức đề
phòng kịp thời nên không té nhào.
Con
sấu lạ nọ lại nổi lên đằng xa, quậy nước rồi lặn mất.
Trong
khi ấy, bè tre từ từ nổi lên. sợi đỏi dài rung rinh. Nơi đầu dây đằng kia, con
sấu bị mắc câu đã quá mệt mỏio, nằm lé đé.
Mấy
cây lao còn lại trong ống tre đã lần lượt phóng xuống, sấu ta không còn đủ sức
để hất mấy mũi sắt đó nữa. Nắn lắc lư cái đầu rồi khuất dạng như chiếc tàu
chìm.
Phen
này, chiếc bè không bị ghì xuống như trước.
Chú
Tư vô cùng mừng rỡ, đoán chừng sấu nọ chịu chết. Ðứa con trai của chú ngưng tiếng
mõ. Chú lấy khăn chùi mấy giọt nước trên mặt rồi quơ khăn lên, làm dấu hiệu:
-
Bà con đâm xuồng ra mau để kéo bè này vô bờ! Tôi mệt quá rồi!
Hằng
chục chiếc xuồng va 2ghe biển đâm ra. Ai nấy buộc đỏi vào bè rồi cố sức kéo. Họ
vừa mừng vừa cảm động. Trên bè, không có một món gì ráo; chuồng heo, thúng cơm
khô, chai rượu đều văng mất. Nhiều nuột mây bị đứt, chiếc bè dường như sắp rã
ra từng cây tre nếu cuộc chiến đấu kéo thêm vài giờ nữa.
Vừa
bước lên bờ, chứ Tư Ðức liền gặp ông kiểm lâm Rốp. Ông ôm chú và thằng bé nọ
vào lòng rồi nói tiu tít:
-
Giỏi quá! Chú Tư giỏi quá! Thằng nhỏ gan quá! Nó bị bịnh rét mà cón mạnh quá!
Tôi mời hai cha con vô đồn.
Chú
Tư Ðức nhìn lại xác con sấu mà mỉm cười:
-
Ðể tôi ở lại coi nó.
Ông
Rốp nói:
-
Thầy hương quản ơi! Trước khi mổ bụng con sấu, thầy phải cho tôi hay nghe. Tôi
dẫn chú Tư vô đồn uống rượu ấm, thay quần áo để chú Tư ngừa bịnh.
Vào
đồn, ông Rốp bắt buộc chú Tư phải nằm xuống nghỉ mệt, thay quần áo ka ki mới, đắp
mền.
-
Rượu “cổ nhác” bên Tây nè! Uống đi chú Tư. Rượu này của mẹ tôi bên cù lao “Cọt”
gởi riêng qua cho tôi.
Chú
Tư hớp một miếng:
-
Ðược rồi, quan lớn.
Ông
kiểm lâm nói:
-
Uống hết đi! Tôi rót nữa cho.
Miệng
nói, tay của ông thoa bóp lia lịa dùm chú Tư:
-
Hết sức giỏi! Người “An Nam” hết sức giỏi. Chú Tư câu được bao nhiêu sấu rồi? Học
nghề với ai vậy?
Chú
Tư nói:
-
Dạ, nghiệp của ông bà truyền lại. Bây giờ con cháu noi theo.
Ông
Rốp gật đầu:
-
Phải! Bữa nào chú nói kỹ lại cách thức câu sấu để tôi viết thành cuốn sách, gởi
về bên Tây cho mẹ tôi được biết. Rồi chú rán câu con sấu còn lại. Chừng đó tôi
đi theo, đứng trên cái thang đánh mõ thử một lần.
Chú
Tư suy nghĩ:
-
Không được đâu!
-
Con sấu kia lợi hại lắm. Phải trừ cho hết. Tôi đọc trong sách thấy rằng loại sấu
lớn thường ở nơi yên tịnh, luôn luôn đi hai con đực và cái.
-
Ông lớn nói đúng. Nhưng mình giết một con đủ rồi, giết hết mình có tội với Trời
Ðất.
-
Tội gì vậy, chú Tư?
-
Tội sát sanh. Ðể con còn lại cho nó đi tu. Ðạo Phật của ông bà có nói lại như vậy
đó.
Ông
Rốp mãi suy nghĩ, vuốt râu:
-
Dân “An Nam” giỏi quá, hiền từ quá. Chú Tư họ gì, mấy tuổi. Ðể tôi chạy tờ về
quan Tham biện chủ tỉnh xuất số tiền về thưởng công lao cho chú. Chú muốn làm
lính kiểm lâm không? Tôi cho chú làm chức “bếp”, ăn lương mỗi tháng mười lăm đồng
bạc.
Chú
Tư Ðức cười:
-
Vì đất nước chớ đâu phải vì danh vì lợi. Sách có chữ: “Kiến nghĩa bất vì vô
dõng giả, lâm nguy bất cứu mạc anh hùng”. Công việc của tôi đã làm tròn. Tôi ao
ước hương chức làng mình cất một cái miễu lá, thờ cái đầu con sấu nọ. Bất luận
là sấu hay cọp, hễ nó hại mình thì mình giết. Hễ giết được rồi, mình nên thờ...
-
Chi vậy?
-
Ðể tỏ rằng mình sợ nó nhưng mà cũng... không sợ nó. Phải để cho nó tu tâm dưỡng
tánh trong kiếp sau. Tôi không ưa sát sanh. Tôi muốn làm nghề khác.
-
Nghề gì?
-
Nghề đốn củi. Chừng hết củi thì đào kinh, làm ruộng. Phen này tôi mừng vì cứu
được vong hồn mấy người đã bị sấu ăn thịt. Theo lời tục truyền: họ thành cô hồn,
sống vất vưởng trên lưng sấu. Lần lần cô hồn nọ bị sấu mê hoặc nên dẫn đường dắt
nẻo cho sấu đi sát hại kẻ đồng loại. Bây giờ sấu chết, bao nhiêu cô hồn đã thảnh
thơi, có thể tự do đi đầu thai trở thành người lương thiện.
Ông
Rốp trầm ngâm suy nghĩ. Ông dè đâu người đốn củi lậu nọ có tài, có đức, biết
thương người, thương cuộc đời đến mức ấy.
Ông
chắp tay lại mà nói:
-
Tôi khen chú nhiều lắm.
Chú
Tư Ðức bèn chắp tay xá ông Rốp mà trả lễ:
-
Ông xá tôi, tôi ngại quá. Giống như hình ông vưa Hy Lạp với thầy tu Ấn Ðộ trên
vách, dưới tấm “bông đồ”. Hôm nọ, hồi tôi mới bị bắt, ông nói cái tích “xơ lanh
đa” gì đó...
Ông
Rốp giựt mình, nhìn lại bức tranh, tấm bản đồ Châu Âu, Châu Á rồi sực nhớ tới mấy
lời nói hôm trước. Tấm hình nọ diễn lại cảnh đẹp ngàn xưa: hai ngàn năm về trước,
tại hoàng thành của tiểu quốc nọ ở phía bắc Ấn Ðộ, lần đầu tiên người phương
Ðông và phương Tây thông cảm nhau, cư xử bình đẳng. Giờ đây, qua bao cuộc luân
hồi, hưng vong đầy nước mắt mà máu trên giải đất tận cùng của nước Việt Nam lại
có hai người cũng đồng cảnh ngộ, đồng niềm thông cảm.
Ông
Rốp buột miệng:
-
Chú Tư Ðức là thầy tư Na Ga Sơ Na.
Chú
Tư nói:
-
Trời ơi! Không dám, tồi chết! tôi là người làm ăn. Tôi không xứng đáng lên Niết
Bàn. Quan lớn có thương thì cho tôi xin lại chiếc xuồng bị tịch thâu bỏ “phú
de” hổm rày. Nó là nồi cơm của tôi. Ðể trên khô, nó mau hư lắm.
Chú
Tư Ðức muốn nói thêm nữa. Chú muốn ví phận mình như một cô hồn bị sấu ăn thịt,
hổm rày sống vất vưởng trong đồn này như sống trên lưng con sấu đội đèn nọ.
Không khéo, thiếu khí phách ngang tàng, chú có thể bị ông Rốp quyến rũ làm “bếp”
kiểm lâm.
Chú
không dám nói ra điều ấy e mất lòng ông Rốp. Chú lắng tai, chờ lịnh xá tội, trả
lại chiếc xuồng. Nhưng ông Rốp dường như không chú ý. Có lẽ ổng đang suy nghĩ
chuyện khác. Ổng chắp tay sau lưng, đi tới đi lui cứ nhìn bức tranh và tấm bản
đồ, đôi mắt mơ mơ màng màng như sám hối trong giây phút những sự hiểu lầm chồng
chất trong tâm ông từ mấy chục năm qua.
Bỗng
từ dưới lầu, thầy hương quản gọi vọng lên:
-
Quan lớn ơi! Chú Tư ơi! Xuống đây mà xem. Bà con đang mổ bụng con sấu, lớn lắm.
Thằng con của chú Tư cưỡi trên cái đuôi sấu mà hai chân nó như hỏng mặt đất lận
kia!
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
namkts57@gmail.com