Bình minh mưa
Konstantin
Georgiyevich Paustovsky
Kim Ân dịch
Tàu thủy đến Navôlôki vào nửa đêm.
Thiếu tá Kuzmin bước ra boong. Trời mưa phùn. Bến vắng tanh, chỉ có một cây đền
lồng leo lét.
Đâu, tỉnh ở đâu? Kuzmin nghĩ. Trời tối,
mưa rơi. Thật chẳng ra làm sao hết!
Chàng co rúm người, cài lại cúc áo
choàng da. Từ mặt sông, gió lạnh thổi vào. Kuzmin tìm thuyền phó, hỏi xem tàu
có đỗ lâu ở Navôlôki không.
- Khoảng ba tiếng. - Thuyền phó trả
lời. - Còn tuỳ việc dỡ hàng. Đồng chí hỏi làm gì? Đồng chí còn đi tiếp cơ mà.
- Tôi phải chuyển hộ anh bạn cùng nằm
quân y viện một bức thư cho vợ anh ấy. Chị ấy ở đây, ở tỉnh này.
- Vậy thì anh phải đi thôi! - Thuyền
phó thở dài.- Trời tối như mực. Nhớ nghe còi, kẻo rớt lại đấy nhé!
Kuzmin xuống bến, trèo lên trên những
bậc thang trơn nơi bờ sông dựng đứng. Nghe có tiếng mưa rơi tí tách trong những
bụi cây. Chàng dừng một lát cho mắt quen với bóng tối và nhìn thấy một cỗ xe xộc
xệch với con ngựa buồn bã. Mui xe đã giương và từ trong xe vẳng ra tiếng ngáy.
- Này ông bạn! - Kuzmin nói lớn. -
Ông ngủ quên để xe đi qua thiên đàng mất rồi.
Người
đánh xe cựa mình, chui ra, hỉ mũi, lấy vạt áo lau, rồi mới hỏi:
- Đi hả?
- Đi.
Kuzmin đồng ý.
- Đi đâu bây giờ?
Kuzmin nói tên phố.
- Thế thì xa. - Người đánh xe bối rối.
- Mãi trên đồi kia. Ít nhất cũng phải chi một chai ngang đấy, ông ơi!
Người đánh xe giật cương, giục ngựa.
Chiếc xe uể oải chuyển bánh.
- Thế nào, bác là người đánh xe độc
nhất ở Navôlôki này hay sao?
Kuzmin hỏi.
- Có hai lão già chúng tôi thôi. Còn
thì đang chiến đấu. Đồng chí đến nhà ai vậy?
- Đến nhà Basilốp.
- Tôi biết! - Ông già nhanh nhẹn
ngoái lại. - Đồng chí đến thăm chị Onga Anđrêepna, con gái bác sĩ Anđrê
Petrôvich, chứ gì! Chị ấy ở Maxcơva về đây, ở nhà cha từ năm ngoái. Bác sĩ mất
đã hai năm! Nhưng nhà vẫn là của họ….
Xe lắc mạnh, nó kêu lọc xọc và rút
được một bánh ra khỏi cái hố.
- Bác nhìn đường cho cẩn thận. -
Kuzmin khuyên. - Chớ trông ngang trông ngửa.
- Đường với đất, rõ... - Người đánh
xe lầu bầu. - Ban ngày mà đi con đưòng này đến phát sợ. Nhưng đêm thì không
sao. Ban đêm không trông thấy ổ gà.
Ông lão im lặng. Kuzmin châm thuốc,
ngả người dựa hẳn vào phía trong. Mưa rơi lộp độp trên mui. Những con chó sủa
xa. Mùi thìa là, mùi hàng rào ướt và hơi ẩm của sông bốc lên. "Ít nhất cũng đã một giờ sáng",
Kuzmin nghĩ. Thực vậy, quả chuông rạn trên một gác chuông nhà thờ đâu đấy điểm
một tiếng ngay lập tức sau khi anh nghĩ.
Giá mình cứ ở đây cho đến hết phép.
Chàng lại nghĩ. Chỉ riêng không khí này cũng đủ làm tiêu tan những điều phiền
muộn sau khi mình bị thương. Mình sẽ kiếm một căn phòng có cửa sổ mở ra vườn.
Trong một đêm như đêm nay mình sẽ mở toang cửa sổ, nằm xuống trùm chăn kín mà
nghe mưa gõ trên những cây ngưu bàng.
- Vậy ra đồng chí là chồng chị ấy?
Ông lão đánh xe hỏi.
Kuzmin không đáp. Ông lão tưởng viên
sĩ quan không nghe rõ nhưng không dám hỏi lại.
Đúng là chồng. Ông lão phán đoán. Thế
mà thiên hạ nói láo là chị ấy đã bỏ chồng từ trước chiến tranh. Rất láo toét.
- Đồ quỷ! - Ông lão với lấy dây
cương, cho con ngựa gầy còn da bọc xương một cái vụt.
- Cứ sục vào chỗ lầy mà đi!
Thật vớ vẩn, tàu trễ, mãi đến đêm mới
tới đây. Kuzmin nghĩ. Tại sao Basilốp (người bạn cùng nằm viện với anh) khi biết
mình sẽ đi qua Navôlôki lại nhờ chuyển thư tận tay cho vợ anh ta? Thế là đành
phải đánh thức họ dậy, có trời mới biết thiên hạ sẽ nghĩ gì về chuyện ấy!
Basilốp là một viên sĩ quan cao lớn,
hay giễu cợt. Anh nói nhiều và thích tán dóc. Trước khi nói một câu gì sâu sắc,
anh cười không ra tiếng một lúc đã. Trước kia, khi chưa được huy động vào quân
đội, Basilốp giúp việc một đạo diễn điện ảnh. Tối nào anh cũng kể tỉ mỉ cho bạn
bè cùng phòng nghe những cuốn phim nổi tiếng. Anh em thương binh thích nghe
Basilốp kể, chờ đợi những câu chuyện của anh và ngạc nhiên vì trí nhớ của anh.
Basilốp nhận xét một cách khắt khe đối với người, sự kiện và sách vở. Anh rất cứng
cổ và giễu cợt bất cứ ai định phản đối mình. Nhưng Basilốp giễu cợt một cách
ranh ma - dùng lối nói đùa cạnh khoé và người bị anh giễu thường hai ba giờ sau
mới sực hiểu ra rằng mình bị Basilốp xỏ xiên và cố nghĩ câu trả lời cho thực
cay độc. Nhưng tất nhiên là đã muộn.
Một ngày trước khi Kuzmin đi, Basilốp
đưa cho chàng một bức thư nhờ chuyển cho vợ mình và lần đầu tiên Kuzmin nhìn thấy
trên mặt Basilốp một nụ cười bối rối. Rồi đêm ấy Kuzmin nghe thấy Basilốp trằn
trọc trở mình và khụt khịt mũi trên giường. Có lẽ anh chàng cũng chẳng đến nỗi
khô khan lắm, Kuzmin nghĩ. Hình như anh chàng đang khóc. Nghĩa là anh chàng
yêu. Và yêu một cách nồng nhiệt nữa là khác.
Suốt cả ngày hôm sau Basilốp không rời
Kuzmin nửa bước, thỉnh thoảng lại liếc nhìn chàng và tặng chàng chiếc bi đông
phát cho sĩ quan. Lúc Kuzmin sắp lên đường họ cùng nhau uống cạn một chai vang
mà Basilốp đã giấu được.
- Sao anh cứ nhìn tôi chằm chằm thế?
Kuzmin hỏi.
- Thiếu tá thân mến ạ, anh là một
người tốt.- Basilốp đáp. - Anh có thể là một nghệ sĩ lắm.
- Tôi làm nghề họa đồ. - Kuzmin trả
lời. -Mà những người họa đồ vốn đã là những nghệ sĩ rồi.
- Vì sao?
Kuzmin trả lời lửng lơ:
- Vì họ là những kẻ lang thang.
- "Những kẻ lưu vong đất khách
quê người,những kẻ lãng du và những nhà thơ". - Basilốp giễu cợt tuyên bố.-
Ai mà chả muốn được như họ, nhưng rồi chẳng làm nên gì hết.
- Anh trích thơ ai đấy?
- Của Vêlôsin. Nhưng vấn đề không phải
là ở chỗ đó. Tôi nhìn anh như thế là vì tôi ghen với anh.
- Anh ghen với tôi cái gì kia chứ?
Basilốp xoay đi xoay lại cái cốc
trong tay, ngả lưng vào thành ghế và nhếch mép cười. Hai người ngồi ở cuối hành
lang quân y viện, bên một chiếc bàn mây. Bên ngoài cửa sổ, gió uốn cong những
cây non, reo lên trong lá và đưa bụi bay đi. Một đám mây trĩu nước từ ngoài
sông đang tiến vào thành phố.
- Tôi ghen gì với anh? - Basilốp hỏi
lại và đặt bàn tay hồng hào của anh ta lên tay Kuzmin. - Tôi ghen với anh vì tất
cả, ghen cả với bàn tay anh.
- Tôi không hiểu gì hết. - Kuzmin
nói và khẽ rụt tay ra. Bàn tay lạnh lẽo của Basilốp chạm vào làm chàng khó chịu.
Nhưng để Basilốp khỏi nhận thấy điều đó, chàng cầm lấy chai rượu vang và bắt đầu
rót.
- Anh mà lại không hiểu! -Basilốp bực
bội đáp. Anh ta im lặng một chút, nhìn xuống và nói. - Giá mà chúng ta được đổi
chỗ cho nhau nhỉ! Nhưng thôi, nói chuyện ấy làm quái gì! Hai ngày nữa anh đã đến
Navôlôki. Anh sẽ gặp Onga Anđrêepna. Nàng sẽ bắt tay anh. Vì thế mà tôi ghen.
Giờ thì anh hiểu rồi chứ?
- Sao anh lại nói thế! - Kuzmin bối
rối. - Anh rồi cũng sẽ gặp vợ anh kia mà.
- Nàng không phải là vợ tôi - Basilốp
trả lời, giọng gay gắt.
- May mà anh không dùng chữ
"phu nhân". - Kuzmin lẩm bẩm.
- Nàng không phải là vợ tôi. - Cũng
vẫn gay gắt như thế, Basilốp nói. - Nàng là tất cả. Tất cả cuộc đời tôi. Nhưng
thôi ta không nói chuyện ấy nữa!
Basilốp đứng lên và đưa tay cho
Kuzmin:
- Vĩnh biệt anh. Xin anh đừng giận
tôi. Tôi cũng không đến nỗi tồi hơn những người khác.
Chiếc xe đi lên đê. Trời càng tối
hơn. Trên những cây bạch liễu cổ thụ mưa ngái ngủ từ những chiếc lá lao xao rơi
xuống. Vó ngựa đập trên cầu lát ván.
"Xa thực!" Kuzmin thở dài
và nói với ông lão đánh xe.-Bác đợi tôi bên cạnh nhà nhé! Rồi đưa tôi trở lại bến…
- Được thôi - Ông lão bằng lòng ngay
tức khắcv à nghĩ. Không, thế thì không phải chồng rồi. Chồng thì thế nào cũng ở
lại vài ba ngày chứ. Chắc người ngoài.
Bắt đầu đến một con đường đá cuội.
Chiếc xe lúc lắc, cái bệ bằng sắt kêu lạch cạch. Ông lão cho xe quặt sang vệ đường.
Bánh xe êm ái lăn trên cát ẩm. Kuzmin lại suy nghĩ.
Basilốp bảo ghen với chàng. Tất
nhiên, anh ta chẳng ghen gì hết. Chẳng qua anh ta đã dùng không đúng cái tự muốn
nói ra. Sau cuộc trò chuyện với Basilốp bên cửa sổ bệnh viện, Kuzmin, ngược
lai, bắt đầu thấy ghen với anh ta. "Lại không đúng từ rồi sao?"
Kuzmin bực bội tự nhủ. Chàng không ghen. Chàng chỉ tiếc. Chàng tiếc rằng mình
đã bốn mươi, nhưng chưa bao giờ có được một tình yêu như Basilốp. Lúc nào chàng
cũng chỉ có một mình.
"Đêm, mưa rơi xào xạc trên những
khu vườn hoang vắng, tĩnh lặng, sương mù từ những cánh đồng cỏ bay qua và thế
là cả cuộc đời cũng qua nốt." Không hiểu sao Kuzmin lại nghĩ như thế.
Chàng bỗng thấy muốn ở lại đây.
Chàng yêu những tỉnh lỵ Nga, nơi đứng ở thềm nhà cũng có thể nhìn thấy những
cánh đồng ở bên kia sông, những con đường rộng bò lên núi, những chiếc xe chở
rơm trên những chuyến phà. Tình yêu ấy làm cho chính chàng cũng phải ngạc
nhiên. Chàng sinh trưởng ở phương Nam trong một gia đình miền biển. Cha chàng để
lại cho chàng tính ham thích tìm tòi, những bản đồ địa lý và cuộc sống lang
thang. Vì thế chàng đã trở thành nhân viên họa đồ. Kuzmin đã coi việc chọn nghề
là ngẫu nhiên. Chàng nghĩ, nếu sinh ra vào lúc khác, có khi mình đã là thợ săn
hoặc người đi tìm đất mới. Chàng thích nghĩ về mình như thế, nhưng chàng đã nhầm.
Tính tình chàng không có có gì giống người làm những nghề kia. Kuzmin nhút nhát
và hiền lành đối với xung quanh. Những sợi tóc phơn phớt bạc tố cáo tuổi chàng.
Nhưng nếu nhìn người sĩ quan tầm thước, gầy gò không ai dám đoán chàng quá ba
mươi.
Chiếc xe ngựa cuối cùng rồi cũng đi
vào tỉnh lỵ tăm tối. Chỉ có một ngọn đèn xanh cháy sáng sau cửa kính một ngôi
nhà, chừng là hiệu thuốc. Đường phố dẫn lên núi. Người đánh xe bỏ chỗ ngồi, bước
xuống cho xe nhẹ thêm. Kuzmin cũng xuống theo, chàng đi tụt lại sau xe một
quãng và bất thần chàng cảm thấy cả cái kỳ quặc của đời mình. Ta đang ở đâu
đây? - chàng nghĩ - Cái tỉnh lỵ
Navôlôki nào đó, một nơi xa vắng, móng ngựa làm bật ra những tia sáng. Ở đâu
đây có một thiếu phụ mà ta không biết. Ta phải chuyển cho nàng, giữa đêm hôm
khuya khoắt như thế này, một bức thư quan trọng và chắc chắn không phải là một
bức thư vui. Hai tháng trước đang còn là mặt trận, nước Ba Lan, con sông Vixoa
êm đềm và rộng. Thực kỳ quặc! Và cũng thực là thú vị!
Xe đã đi qua đồi. Ông lão rẽ ngang
vào một phố. Những đám mây đen có chỗ đã tản ra và trong cái đen tối trên đầu,
đây đó lấp lánh một vì sao. Ngôi sao vụt ánh lên trong những vũng nước rồi lại
tắt ngấm.
Xe dừng lại bên một ngôi nhà có chòi
ở giữa.
- Đến rồi! - Ông lão đánh xe nói. -
Chuông ở cổng phía bên phải.
Kuzmin sờ soạng tìm thấy nắm chuông
gỗ và kéo xuống nhưng chàng không nghe thấy chuông kêu, chỉ có tiếng rin rít của
sợi giây thép gỉ.
- Ông cứ giật mạnh vào!
Kuzmin làm theo. Ở sân trong sau
nhà, quả chuông con lúc lắc. Nhưng trong nhà vẫn yên lặng như tờ, chắcchưa ai
thức dậy.
- Ô... ô... ô...! - Ông lão ngáp. -
Đêm mưa thế này người ta ngủ say bằng chết.
Kuzmin đợi một lát rồi giật mạnh
hơn. Ở phòng lát gỗ có tiếng chân vẳng ra. Có người nào đến bên cửa sổ, dừng lại
nghe ngóng rồi bực dọc hỏi:
- Ai vậy? Muốn gì?
Kuzmin định trả lời, nhưng ông lão
đã nói trước.
- Mở cửa ra, Macfa. - Ông lão nói. -
Có người ở mặt trận về gặp chị Onga.
- Ai ở mặt trận về? - Giọng nói sau
cửa vẫn chẳng dịu dàng hơn trước chút nào. - Chúng tôi chẳng đợi ai cả.
- Không đợi, thế mà lại gặp đấy!
Cánh cửa hé mở. Trong bóng tối
Kuzmin nói chàng là ai và vì sao chàng tới.
- Trời! - Người đàn bà đứng sau cửa
sợ hãi kêu lên. - Ông rõ vất vả! Tôi mở cửa ngay bây giờ. Chị Onga đang ngủ. Mời
ông vào, tôi sẽ đánh thức chị ấy dậy.
Cửa mở, Kuzmin bước vào phòng treo
áo tối mò.
- Ở đây có bậc. – Người đàn bà dặn,
giọng nói đổi hẳn, dịu dàng. - Đêm hôm thế này mà ông cất công đến! Ông đợi cho
một chút kẻo vấp. Tôi châm đèn ngay bây giờ, ở đây đêm mất điện.
Bà ta đi, còn Kuzmin ở lại phòng
treo áo. Từ các phòng bay ra mùi trà và một mùi gì đó nữa, êm ái. Một con mèo
bước ra, cọ mình vào chân Kuzmin, nó kêu gừ gừ rồi trở vào căn phòng tối như muốn
mời Kuzmin đi theo mình.
Đằng sau cánh cửa hé mở hắt ra một
ánh sáng run rẩy yếu ớt.
- Mời ông.
Người đàn bà nói.
Kuzmin bước vào. Người đàn bà cúi
chào chàng. Đó là một bà lão tầm vóc cao, mặt hơi đen.Kuzmin cố giữ cho khỏi
gây ra tiếng động, bước đi gần như rón rén.
- Ông đừng ngại, đằng nào cũng phải
đánh thức chị ấy.
Bà lão mỉm cười.
Kuzmin khe khẽ hỏi:
- Ở đây có nghe rõ còi tàu ngoài biển
không cụ?
- Nghe rõ ông ạ! Rõ lắm! Cứ như tàu
nọ nghe tàu kia thôi! Ông ngồi xuống đi.
Bà lão ra, Kuzmin ngồi xuống chiếc
đi văng tựa gỗ.
Chàng do dự khi móc túi lấy thuốc
hút. Chàng bối rối và nỗi bối rối khó hiểu ấy làm chàng tức giận. Cái cảm giác
bao giờ cũng có khi ta ban đêm vào nhà người khác, bước vào một cuộc sống không
phải là của ta, đầy bí mật và những điều khó hiểu, xâm chiếm tâm hồn chàng. Cuộc
sống ấy giống như một cuốn sách bỏ quên trên bàn ở trang sáu mươi lăm nào đó.
Kuzmin nhìn vào trang giấy ấy và cố đoán xem cuốn sách nói về chuyện gì, có gì
bên trong?
Ở trên bàn có một cuốn sách ngỏ thực.
Kuzmin đứng dậy cúi xuống và vừa lắng nghe tiếng thì thào vội vã bên kia cánh cửa
và tiếng áo phụ nữ sột soạt, vừa đọc thầm những dòng chữ chàng quên bẵng từ
lâu:
Cái không thể đã thành có thể
Con đường dài hóa dễ với ta
Nhọc nhằn chi mấy cũng qua
Cuối đường tìm kiếm khi ta thấy nàng
Kuzmin ngẩng đầu lên, nhìn quanh.
Căn phòng thấp và ấm áp một lần nữa lại làm chàng muốn ở lại tỉnh lỵ này. Căn
phòng với ngọn đèn treo trên bàn ăn, chụp đèn trắng đục, đôi sừng tuần lộc đóng
trên bức tranh vẽ con chó bên giường bệnh một em bé gái, có một thứ ấm cũng đặc
biệt vô tả. Những căn phòng như thế bao giờ cũng làm ta phải mỉm cười bởi mọi vật
ở đó đều cổ lỗ, từ lâu ta đã lãng quên.
Mọi vật chung quanh, đến cái gạt tàn
bằng vỏ ốc màu hồng đều chứng tỏ một cuộc sống dài và bình thường làm cho
Kuzmin lại nghĩ rằng giá chàng được ở lại đây và sống như những người chủ ngôi
nhà cũ kỹ này đã sống một cuộc sống không vội vã, làm rồi nghỉ ngơi, xuân rồi lại
đông và những ngày nắng ngày mưa xen kẽ.
Nhưng bên cạnh các đồ vật cũ kỹ,
trong phòng còn có những thứ khác. Trên bàn cắm một bó hoa đồng nội: hoa cúc,
hoa phế hình, hoa thanh lung trà dại. Hoa chắc vừa mới hái. Chiếc kéo và những
cành hoa bị cắt bỏ nằm trên khăn bàn.
Và bên cạnh là tập thơ Con đường dài
hoá dễ với ta để ngỏ của Blôck. Chiếc mũ phụ nữ nhỏ nhắn màu đen đặt bên cuốn
sách bìa nhung lam đặt trên mặt đàn dương cầm. Cái mũ hoàn toàn không cổ chút
nào, rất hợp thời trang. Một chiếc đồng hồ con, dây mạ kền vứt cẩu thả trên
bàn. Đồng hồ chạy rất êm, kim đồng hồ chỉ một giờ rưỡi… Mùi nước hoa bao giờ
cũng phảng phất buồn, nhất là trong đêm khuya khoắt như đêm nay.
Một cánh cửa kính để mở. Bên ngoài
cánh cửa, đằng sau những chậu thu hải đường, một bụi tử đinh hương ướt nước mưa
lấp lánh dưới ánh sáng yếu ớt từ trong phòng lọt ra qua cửa kính. Mưa bụi thì
thào trong bóng tối. Những giọt nước nặng hối hả đập vào lòng máng.
Kuzmin lắng nghe tiếng nước rơi, ý
nghĩ về sự qua đi không thể nào lấy lại mỗi khoảnh khắc nhỏ nhất của thời gian,
cái ý nghĩ dằn vặt con người thế kỷ này qua thế kỷ khác, đã đến với chính chàng
lúc này, ban đêm, trong ngôi nhà xa lạ, và từ ngôi nhà ấy, một phút nữa thôi,
chàng sẽ ra đi và không bao giờ trở lại.
Do tuổi già mà mình nghĩ thế hay
sao? Kuzmin nghĩ và quay lại.
Một thiếu phụ vận đồ đen đứng ở ngưỡng
cửa. Thiếu phụ hẳn vì vội ra tiếp khách nên chưa chải đầu cẩn thận. Một bím tóc
rơi trên vai, và thiếu phụ, mắt vẫn không rời Kuzmin bối rối mỉm cười, nâng nó
lên, lấy trâm cài vào đám tóc ở gáy. Kuzmin nghiêng người chào thiếu phụ. Nàng
đưa tay cho chàng và nói:
- Xin lỗi anh. Tôi đã làm anh phải đợi.
- Chị là Onga Anđrêepna?
- Vâng.
Kuzmin nhìn thiếu phụ. Dáng trẻ
trung với đôi mắt long lanh, sâu và hơi mờ của thiếu phụ làm chàng sửng sốt.
Nàng cầm lấy, cám ơn chàng và đặt bức thư lên
mặt đàn dương cầm, không đọc.
Kìa, chúng ta cứ đứng mãi! - Nàng nói - Mời
anh ngồi! Anh ngồi gần bàn đây này. Ở đây sáng hơn.
Kuzmin ngồi xuống bên bàn và xin
phép được hút thuốc.
- Anh cứ tự nhiên. - Nàng nói. - Tôi
cũng xin được hút cùng anh.
Luzmin mời nàng và đánh diêm. Khi
thiếu phụ châm lửa, ánh diêm hắt lên mặt nàng và chàng thấy khuôn mặt trầm tư với
vầng trán thanh sạch của nàng có vẻ quen quen đối với chàng.
Onga ngồi xuống, đối diện với
Kuzmin. Chàng chờ đợi những câu hỏi, nhưng nàng chỉ im lặmg và nhìn ra cửa sổ,
nước mưa vẫn đều đều xào xạc.
-
Macfa! Onga nói và quay về phía cửa. - Bà đặt giúp tôi ấm chè.
- Không, không!
Kuzmin hốt hoảng.
- Tôi phải đi ngay bây giờ. Người đánh xe còn
đợi ngoài phố. Tôi chỉ định chuyển bức thư cho chị và nói với chị tin tức về…
anh ấy.
- Có gì đáng nói đâu! - Onga trả lời,
rút trong bó hoa ra một bông hoa cúc và tàn nhẫn vặt từng cánh.
- Anh ấy còn sống thế là tôi mừng.
Kuzmin im lặng.
- Anh đừng đi vội. - Onga nói, bình
dị như nói với một người bạn cũ.
- Ở đây nghe rõ còi tàu. Chắc chắn
tàu thủy chỉ chạy được trước khi trời sáng.
- Sao vậy?
Bà Macfa từ bên buồng chõ sang:
- Tại ở vùng này, phía dưới Navôlôki
có một con bương lớn dưới dòng sông. Đêm hôm đi qua đấy nguy hiểm lắm. Vì thế
các thuyền trưởng cứ phải chờ đợi trời sáng.
- Đúng như vậy. - Onga xác nhận. - Từ
đây ra bến đi bộ chỉ hết mười lăm phút, nếu qua lối vườn hoa. Tôi sẽ tiễn anh.
Còn bác đánh xe thì anh cho về thôi. Ai chờ anh? Có phải bácVaxili không?
- Cái đó thì tôi lại không biết.
Kuzmin mỉm cười.
- Timôfây chở ông ấy tới đây! - Bà
lão từ cửa phòng bên báo sang. Nghe rõ cả tiếng bà lắp ống khói cho ấm xamôva
kêu long xong. - Ít nhất ông cũng phải uống trà đã. Chưa chi vừa mới ở ngoài
mưa vào đã lại định ra mưa.
Kuzmin nhận lời. Chàng ra cửa trả tiền
xe. Ông lão chưa đi vội, còn loay hoay bên con ngựa, chữa lại thắt đai.
Khi chàng trở vào thì bàn đã dọn. Những
chiếc chén cũ màu xanh tô chỉ vàng, một bình sữa hâm nóng, mật ong và một chai
rượu vang mới mở. Bà Macfa mang ấm xamôva vào.
Onga xin lỗi vì tiếp khách quá đạm bạc.
Nàng nói đã chuẩn bị trở lại Maxcơva, nhưng hiện giờ vẫn còn tạm làm việc ở
Navôlôki, tại thư viện tỉnh. Kuzmin đợi mãi xem rồi nàng có hỏi gì đến Basilốp
không, nhưng nàng không hỏi. Vì thế chàng mỗi lúc một bối rối thêm. Từ khi vẫn
còn nằm quân y viện chàng đã đoán giữa vợ chồng Basilốp có chuyện lủng củng.
Nhưng lúc này, sau khi thấy Onga không đọc mà lại đặt thư lên bàn thì chàng tin
mình đã đoán đúng. Và chàng cảm thấy như mình chưa tròn trách nhiệm đối với
Basilốp và có lỗi nhiều trong chuyện đó. Chắc Onga
sẽ đọc thư sau, chàng nghĩ. Nhưng chàng biết rõ một điều là bức thư mà Basilốp
coi trọng, vì nó mà chàng phải tới ngôi nhà này vào một giờ bất tiện, đã không
còn cần thiết và chẳng thú vị gì đối với người nhận. Thành thử Kuzmin đã không
giúp gì được cho Basilốp mà còn đặt mình vào một tình thế khó xử. Onga như đoán
được ý nghĩ của chàng, nàng nói:
- Anh đừng giận. Bưu điện có, điện
tín có, không hiểu sao anh ấy lại còn phiền anh làm gì.
- Có phiền gì đâu! - Kuzmin vội nói
và sau khi yên lặng một lát, chàng tiếp. - Ngược lại, còn rất tốt nữa là khác.
- Anh nói cái gì tốt kia?
Kuzmin đỏ mặt.
Cái gì tốt kia? - Onga hỏi lại, lần này nàng
nói to hơn và ngước mắt nhìn Kuzmin. Nàng nhìn chàng, như cố đoán xem chàng
nghĩ gì, một cách nghiêm nghị, người đưa hẳn về phía trước, chờ câu trả lòi.
Nhưng Kuzmin chỉ im lặng.
- Anh nói đi, cái gì tốt?
Nàng hỏi lại một lần nữa.
- Biết nói với chị thế nào. - Kuzmin
suy nghĩ, trả lời. - Đó là một câu chuyện đặc biệt. Tất cả những gì ta yêu mến
thì ta lại ít gặp. Không biết người khác thế nào chứ tôi nghiệm bản thân thì
đúng như vậy. Mọi điều tốt lành hầu như bao giờ cũng chỉ đi lướt bên ta. Chị hiểu
ý tôi chứ?
- Tôi không hiểu lắm.
Onga trả lời và nhíu đôi lông mày.
- Giải thích như thế nào để chị hiểu
đây? - Kuzmin nói. Chàng tự giận mình. - Chắc là chuyện đó cũng xẩy ra cả với
chị. Từ trong cửa sổ toa tàu, chị bất thần trông thấy một cánh rừng bạch dương
thưa thớt với một lưới mạng nhện mùa thu ánh lên trong nắng và thế là chị muốn
nhẩy ngay ra giữa lúc tàu đang chạy để được ở lại cánh rừng ấy. Nhưng con tàu cứ
đi qua. Chị nhoai người ra ngoài cửa sổ và nhìn lại những cánh rừng, những bãi
cỏ rộng, những con ngựa, những nẻo đường làng đang vùn vụt chạy về phía sauv à
chị nghe thấy một tiếng reng reng mơ hồ. Vật gì kêu, chị không biết. Có thể là
rừng hay không khí, hay tiếng rít của những giây điện thoại. Mà cũng có thể đó
là tiếng reo của những thanh ray khi tàu chạy. Cái đó chỉ ánh lên trong khoảnh
khắc nhưng ta chờ mãi suốt đời.
Kuzmin im lặng. Onga đẩy cốc vang lại
phía chàng.
- Trong đời tôi. - Kuzmin nói và đỏ ửng
mặt, chàng bao giờ cũng đỏ mặt khi phải nói về mình, - tôi vẫn hằng chờ đợi những
chuyện bất ngờ và đơn giản ấy. Và nếu tôi gặp chúng, ấy là tôi hạnh phúc. Tuy
chúng ngắn ngủi, nhưng tôi cũng đã từng gặp.
- Và bây giờ cũng vậy ư? - Onga hỏi.
- Vâng!
Onga nhìn xuống.
- Vì sao? Nàng hỏi.
- Tôi không rõ. Nhưng tôi có cảm
giác như vậy. Tôi bị thương trên sông Vixoa, rồi nằm quân y viện. Mọi người đều
có thư từ gửi đến, riêng tôi thì không. Chẳng qua chỉ vì tôi chẳng có ai viết
cho. Tôi nằm và tưởng tượng đến cuộc sống tương lai của mình sau chiến tranh
như mọi người thường tưởng tượng. Tương lai ấy nhất định phải hạnh phúc và khác
thường. Rồi tôi khỏi và người ta quyết định cho tôi đi nghỉ. Họ chỉ định một
thành phố.
- Thành phố nào? Onga hỏi.
Kuzmin nói tên thành phố. Onga không
nói gì.
- Tôi xuống tàu. Kuzmin nói tiếp.
- Làng mạc ở hai bên bờ, những bến
tàu. Và cảm giác cô đơn chán ngấy. Tôi xin chị, chị đừng nghĩ rằng tôi than phiền.
Trong cô đơn cũng có nhiều cái tốt. Rồi Navôlôki. Tôi sợ ngủ quên. Đêm khuya
tôi ra boong tàu và suy nghĩ: thực là lạ lùng vì trong bóng tối bao la trùm kín
cả nước Nga, dưới bầu trời rả rích mưa, có hàng nghìn người khác nhau đang ngủ
một cách yên lành. Rồi tôi đi xe ngựa đến đây và cứ đoán mãi: người tôi sẽ gặp
là ai?…
- Nhưng điều gì làm anh hạnh phúc
kia chứ? Onga hỏi.
- Không... - Kuzmin sực tỉnh. - Nói
chung là tốt.
Anh im lặng.
- Kìa anh? Nói đi chứ!
- Nói gì kia? Tôi nói thế đã nhiều lời
lắm, tôi đã nói những điều không đáng nói.
- Anh cứ nói hết. - Onga trả lời.
Nàng như không nghe rõ những từ cuối cùng trong câu nói của chàng. -Nói tất cả
những gì anh muốn. - Nàng nói thêm. - Dù cho điều đó có hơi kỳ quặc đi chăng nữa.
Nàng đứng dậy đến bên cửa sổ, gạt
chiếc rèm sang một bên. Mưa vẫn không ngớt.
- Chị nói cái gì kỳ quặc kia?
Kuzmin hỏi.
- Mưa vẫn rơi! - Onga nói và quay lại.
- Đấy, cuộc gặp gỡ như thế này. Và tất cả câu chuyện đêm khuya giữa chúng ta.
Cái đó chẳng kỳ quặc hay sao?
Kuzmin bối rối im lặng. Trong bóng tối
ẩm ướt bên ngoài cửa sổ, ở một nơi nào đó dưới chân đồi, con tàu rúc lên.
- Thôi! - Onga nói như trút được
gánh nặng. - Còi rồi!
Kuzmin đứng dậy. Onga vẫn không nhúc
nhích.
- Gượm đã, - nàng nói, bình tĩnh. -
Chúng ta ngồi với nhau một lát trước khi anh lên đường. Như tục cũ ngày xưa.
Kuzmin lại ngồi xuống. Onga cũng ngồi
xuống, suy nghĩ và quay mặt đi, không nhìn Kuzmin. Chàng đưa mắt nhìn đôi vai
nàng nhô lên, nhìn những bím tóc dày búi sau gáy, đường cong thanh tao nơi cổ
nàng và nghĩ rằng nếu không có Basilốp thì chàng sẽ chẳng rời bỏ cái tỉnh lỵ
này mà đi đâu hết. Chàng sẽ ở đây cho đến hết hạn nghỉ phép và sẽ sống, bồi hồi
biết rằng bên cạnh chàng có người thiếu phụ đáng yêu và rất buồn bã giờ đây.
Onga đứng dậy. Trong phòng áo chật hẹp,
Kuzmin giúp nàng khoác áo mưa. Onga lấy khăn, choàng lên đầu. Hai người ra khỏi
nhà, im lặng đi bên nhau trên đường phố tối.
- Trời sắp sáng. - Onga nói.
Bầu trời sũng nước đã rạng xanh bên
kia sông, Kuzmin thấy Onga rùng mình.
- Chị lạnh à? - Chàng lo lắng. - Chị
tiễn tôi thật vô ích. Tự tôi, tôi cũng có thể tìm được đường ra bến.
- Không, không vô ích đâu.
Onga
trả lời ngắn ngủi.
Mưa đã qua nhưng những giọt nước vẫn
từ trên mái nhà rơi lộp độp xuống hè phố lát gỗ. Vườn hoa kéo dài tới tận cuối
phố. Cổng mở. Liền sau cổng là những con đường rậm rạp, bỏ hoang, không người
chăm sóc. Trong vườn có mùi lá ướt, hơi lạnh của đêm khuya. Đó là một khu vườn
cũ, đen ngòm những cây bồ đề cao lớn. Chúng đã rụng hết hoa và đã hơi yếu ớt.
Chỉ mỗi một lần gió ào ào kéo qua là cả khu vườn xao động tưởng chừng như có một
trận mưa rào nặng hạt vừa đổ xuống rồi lại tạnh ngay.
Cuối vườn là bờ sông dựng đứng trên
mặt nước và bên kia là những chân trời trước rạng đông ướt sũng nước mưa, ánh
phù tiêu mờ mờ phía dưới, sương mù, tất cả nỗi buồn những ngày mưa mùa hạ.
- Ta xuống thế nào đây? Kuzmin hỏi.
- Anh lại đây.
Onga rẽ theo con đường thẳng tuột tới
bờ sông dựng đứng, đứng bên cầu thang gỗ bắc xuống dưới và mất hút trong bóng tối.
- Anh đưa tay đây. - Onga nói. - Chỗ
này có nhiều bậc thang mục.
Kuzmin
đưa tay cho nàng và hai người thận trọng lần xuống. Giữa những bậc thang là cỏ
ướt nước mưa.
Bậc bục gỗ cuối cùng, họ dừng lại.
Đã trông rõ bến, những ngọn đèn xanh đỏ của con tàu. Hơi nước rít lên. Tim
Kuzmin se lại, chàng nghĩ rằng, ngay bây giờ thôi, chàng sẽ phải chia tay với
người thiếu phụ không quen biết nhưng lại gần gũi biết bao, chia tay với nàng mà
không nói được gì, không nói gì hết. Cũng chẳng cám ơn nàng đã gặp chàng trên
đường đời, đã đưa cho chàng bàn tay nhỏ bé, vững chãi sau lần bao tay ẩm, thận
trọng dẫn chàng đi trên chiếc cầu thang ọp ẹp và cứ mỗi lần có một cành cây ướt
sũng rủ xuống phía trên tay vịn có thể vướng vào mặt chàng thì nàng lại nói khẽ
“Anh cúi đầu xuống”. Và chàng ngoan ngoãn vâng theo.
- Chúng ta chia tay nhau ở đây thôi.
- Onga nói. - Tôi không đi hơn nữa đâu.
Kuzmin
đưa mắt nhìn nàng. Qua nếp khăn choàng, đôi mắt Onga nghiêm nghị lo lắng nhìn
chàng. Có lẽ nào giờ đây, trong phút này thôi, tất cả sẽ đi vào dĩ vãng và sẽ
trở thành một trong những kỷ niệm xót xa trong cả đời nàng và trong cả đời
chàng?
Onga đưa tay cho Kuzmin. Chàng hôn
tay nàng và lại thấy vẫn cái mùi nước hoa thoang thoảng mà chàng đã thấy trong
căn phòng tối, giữa tiếng mưa rơi xào xạc.
Khi
chàng ngẩng đầu lên, Onga nói một câu gì, nhưng khẽ đến nỗi chàng không nghe
rõ. Chàng ngờ rằng nàng chỉ nói độc một tiếng “Vô ích…” Có lẽ nàng còn nói điều
gì nữa, nhưng con tàu dưới sông đã gầm lên, than thở vì buổi bình minh ẩm ướt,
vì cuộc sống lang thang của nó trong những ngày mưa và trong những buổi sương
mù.
Kuzmin chạy lên bờ sông, không ngoái
lại. Chàng đi qua bến sông thoang thoảng mùi vỏ cây và mùi hắc ín, trèo lên tàu
và bước ngay lên boong vắng tanh vắng ngắt. Con tàu bắt đầu rời bến, chân vịt
quay chậm chạp.
Kuzmin đi lại đằng lái, nhìn về bờ
sông dựng đứng, nhìn cái cầu thang: Onga vẫn đứng đấy. Trời hửng sáng và khó mà
nhìn rõ ràng. Kuzmin giơ tay lên nhưng nàng không vẫy lại.
Con tàu mỗi lúc một đi xa, dồn vào
đôi bờ cát những đợt sóng dài, làm những phù tiêu trên sóng lúc lắc và tiếng dội
của những bụi miên liễu bên bờ đáp lại tiếng chân vịt vội vã của con tàu.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
namkts57@gmail.com