Mùa "Len"
Trâu
Sơn
Nam
Nước
tràn bờ sông Hậu chảy qua. Nước trên trời tuôn xuống. Gió biển triền miên thổi
lộng về. Từ Sáng đến chiều, mặt trời biến dạng sau lớp mưa: ánh nắng pha loãng
đều đều không làm chóa mắt kẻ ưu tư đang ngồi hút thuốc mà ngắm mấy lượn sóng
chạy dài tiếp lưng trời. Núi Ba Thê bên này, núi Cấm trước mặt, hòn Sóc, hòn Ðất
bên kia bình thường xem hùng vĩ, thơ mộng thì nay trở thành lè tè, bé bỏng
trong cảnh bao la trời nước.
Chú
Tư Ðinh lại vấn điếu thuốc thứ nhì, mỉm cười khi thấy từ chân trời một cơn mưa
to hơn sắp kéo đến.
-
Ừ! Mưa hoài đi. Ông trời năm nay biết điệu, thuận mùa, thuận tiết...
Thiếm
Tư như phản đối ý chồng:
- Mưa vài đám nữa thì có môn leo lên nóc
nhà mà ở. Ba cái lu, ba cái hũ trôi lểnh nghểnh trong nhà rồi, ba nó chưa hay
sao? Gạo hết, tiền hết.
-
Mình đừng trách trời. Hồi nào tới giờ, trời cứ vậy hoài, hết mùa hạn thì phải tới
mùa nước lụt chớ.
Chú Tư muốn giải nghĩa sự lạc quan của
mình dài dòng hơn để thiếm Tư nghe. “Ðàn bà giỏi tài chú ý lặt vặt chuyện bếp
núc. Nhìn ra đồng thì họ chỉ thấy những chuyện trên mặt nước, hơi đâu mà cãi”.
Nghĩ vậy, chú im lặng, vấn thêm điếu thuốc nữa. Giờ này, dưới đáy nước, sát mặt
ruộng, mớ đất cày mềm nhũn, trở mình trắng phau. Gió thổi mạnh, trôi nhà trôi cửa
nhưng lúa một tấc; thân lúa đuối sức cố nằm dài trên mặt nước vừa hấp hối ngột
thở là nhánh non nứt ra trong nháy mắt để chào đón cuộc sống.
Sau
hè nhà, nước dậy đùng đùng, sóng gợn từng lượn lớn, vỗ lát chát vào vách. Chú
Tư bước nhè nhẹ trên sàn tay vịn mái nhà, tay che mắt rồi cau mày; thằng Nhi đứa
con trai của chú đang cưỡi trâu về.
Ðôi
trâu bước lên nền chuồng trâu lúc trước, tuy đã đắp cao thêm gần một thước vậy
mà nước leo lên lé đé.
Chú
Tư chờ thằng Nhi vào nhà. Nó cổi cái áo ướt mem quăng trên sân:
-
Xung quanh đây hết cỏ rồi. Làm sao bây giờ hả ba? Trâu đói nữa, con mắt nó đổ
ghèn hoài.
Chú
nói:
-
Bên giồng cát Sóc Xoài... Mày có qua tới đó không?
-
Có. Mà hết cỏ rồi. Mấy lõm cỏ sau chùa không đủ cho trâu bò ở đó ăn, đâu có dư
tới mình. Trâu mình ốm nhiều. Từ Ðây tới nước giựt còn trên ba tháng nữa, làm
sao chịu nổi?
-
Hồi đầu mùa, tao biểu giao trâu mình họ len đi miệt khác kiếm cỏ. Má mày ngăn cản.
Bây giờ tới nước này rồi...
Thiếm
Tư trầm ngâm suy nghĩ, nhìn đôi trâu đã mòn sức, be sườn lòi rõ rệt từng hàng
như vòng cung. Ðể ở nhà, trâu chết đói; giao cho thiên hạ len đi thì làm sao bảo
đảm được? Trâu của trăm chủ khác nhau gom lại chung một bầy, tha hồ lấn hiếp,
chém lộn bầy trâu gần bốn trăm con mà chỉ có năm sáu người chăn giữ.
Ðường
dài thăm thẳm, lội nước băng rừng, rủi khi bịnh hoạn thì trâu đành bỏ mạng nơi
xứ lạ quê người. Thật là tấn thối lưỡng nan! Ðôi trâu nhà đứng khúm núm đó,
trên nền chuồng, như hai pho tượng bằng đồng đen dựng lên mặt nước. Thiếm nói:
-
Ba nó tính sao thì tính. Tôi rối trí quá rồi.
Chú
Tư chép miệng:
-
Không nên cãi mạng trời. Muốn cãi cũng không được. Không lẽ họ giết trâu mình?
Trăm con, chết chừng đôi ba con là nhiều. Muốn vững bụng hơn, mình cho thằng
Nhi theo coi chừng.
Thằng
Nhi há miệng ngạc nhiên không dè mùa nước năm nay nó lại được đi du lịch bất ngờ
như vầy. Chú Tư hỏi:
-
Muốn đi không mậy? Chặng đầu, họ mới len trâu tới chân núi Ba Thê, mình đuổi
theo nhập bầy còn kịp, đây qua đó chừng nửa ngày đường. Lấy cái nóp mới của tao
mà đem theo. Dọc đường muỗi mòng, mưa gió nhớ đi theo sát hai con trâu của
mình, đừng ham chơi lêu lổng. Nói với tằn khao (đầu nậu, cai thầu) rằng mình chịu
đóng cho y mười giạ lúa tiền công len trâu, mùa này.
Mưa
cứ mưa trút xuống. Gió cứ dậy sóng lên. Từ lúc thằng Nhi dẫn trâu đi, nhà cửa lần
lần trở nên vắng lạnh. Thiếm Tư cằn nhằn:
-
Giao sanh mạnh hai con trâu cho họ, ba nó chưa vừa bụng sao? Lại còn bày đặt
cho thằng Nhi đi theo! Rủi bề gì...
Chú
Tư nói:
-
Má nó khéo lo thì thôi! Trâu hễ tới số thì dẫu cầm ở nhà nó cũng không sống.
Tôi buồn lắm. Trâu giúp mình tạo ra hột lúa; bù lại, mình không kiếm đủ cỏ cho
nó ăn no. Như vậy là mình bất nhân. Còn thằng Nhi... dịp này để nó học nghề với
người ta.
Thiếm
Tư hơi giận:
-
Nghề gì? Nghề chăn trâu mà cũng học nữa à? Tôi không ham cái nghề đó.
-
Má nó nói giỡn sao chớ! Chăn trâu còn khó hơn diều binh khiển tướng. Ðời xưa,
nhiều người nhờ lúc nhỏ chăn trâu mà tới lớn được làm vua. Con nít chăn trâu ca
hát nghe bậy bạ nhưng nhiều khi linh nghiệm như sấm truyền, đoán trúng những
chuyện quốc sự. Tôi nhớ coi... Trong truyện Phong Thần gì đó nhắc cái tích ông
Nịnh Thích ngồi trên lưng trâu, gõ sừng mà hát công kích vua đời... Liệt Quốc
Ðông Châu! Vua giựt mình, mời ông Nịnh Thích về làm quân sư. Nghe đâu lúc về
hưu trí, ông Nịnh Thích lại cữi trâu mà du sơn ngoạn thủy. Như, tiều, canh, mục
là bốn điều quan trọng mà.
Thiếm
Tư vẫn chưa nguôi cơn buồn:
-
Ba nó nói chuyện đời xưa. Chăn trâu theo kiểu ở xứ mình có khác, tối ngày đeo
đuôi trâu mà lặn hụp dưới nước, ăn không no, ngủ không yên...
-
Nhưng mà học khôn nhiều chuyện. Mà nó hồi nào tới giờ chưa từng tới núi Ba Thê,
vậy mà bây giờ thằng Nhi nó rành đó! Cảnh núi non thanh lịch, tâu ăn cỏ ngẩng đầu
coi mây bay lui tới; ngứa lưng thì trâu cọ mình vô cột của đền vua chùa mà gãi
sốn sột. Má nó biết không? Ở núi Ba Thê, trâu len ăn cỏ trên đền vua đời xưa...
Vua chùa mất hết, trâu đời đời kiếp kiếp còn đứng dửng dưng trên mặt đất này
hoài!
Thiếm
Tư bực bội:
-
Ðói, không đủ cỏ ăn mà cũng sang trọng. Thôi ông ơi! Ðừng nói nữa.
-
Hết cỏ thì qua chỗ khác, má nó đừng lo. Từ Ba Thê cả bầy trâu len qua miệt Bảy
Núi. Oai vệ lắm kìa! Voi đi một lần đôi ba chục con là cùng, cọp đi hai ba con
là nhiều; cảnh đó ở miệt rừng ai cũng thấy. Ðằng này, trâu lội nước năm ba trăm
con, đen đầu, đặc nước. Kiếm bạc trăm là dễ chớ muốn thấy được cảnh đó không phải
dễ, giống như hồi thiên hạ sơ khai, càn khôn hỗn độn... Mấy ông thầy chùa, bà
vãi ẩn mình trong cốc trên núi, chán cảnh trần tục vậy mà họ còn bước ra ngóng
mắt theo bầy trâu len dữ dội...
Càng
nhắc tới, chú Tư càng thích chí, thiếm Tư trái lại ngồi buốn xo, không tin nơi
lời chồng , cho rằng đó là kiểu an ủi gượng của kẻ túng cùng. Chú Tư lại vấn
thuốc, hỏi vợ:
-
Má nó ngủ hay thức? Nãy giờ có nghe không? Sao không ừ hử gì ráo, hay là ngủ rối...
-
Tôi nằm nghe đây mà. Nghe bằng lỗ tai chớ nghe bằng miệng sao mà phải ừ hử từng
chập?
Chú
Tư lại nói tiếp:
-
Ở Bảy Núi thanh khiết hơn ở Ba Thê. Trâu ăn toàn cỏ lạ hoa thơm; lắm thứ cỏ phảng
phất mùi gì giống như vị thuốc Bắc. Ban đêm, muỗi mòng cũng ít, tiếng chuông
chùa, tiếng tụng kinh gõ mõ thì nhiều... Mặc dầu ăn cỏ ở dưới chân núi, trâu
cũng được phong làm chúa sơn lâm. Cọp beo trên núi quì xuống mà đầu hàng chớ
không dám xáp lại.
Bên
kia sàn nhà, thiếm Tư bắt đầu thở nhẹ rồi ngáy pho pho. Chú Tư mỉm cười, không
chút hờn giận. “Vợ mình chán không thèm nghe nữa vì nãy giờ mình nói toàn những
chuyện vui tươi, sung sướng, giấu giếm những nỗi cực nhọc trong nghề chăn trâu.
Nhưng cần gì? Cốt ý là mình nhắc lại cuộc đời len trâu của mình hồi thuở con nhỏ
cho riêng mình nghe mà thôi”. Chú lại vấn thuốc hút. Bên ngoài trời vẫn mưa,
sóng nước vẫn chạy ùa tới đập vào vách nhà. Khói thuốc phun mờ mờ, bay thoảng
lên cao. Chân trời lại hiện ra, lúa nằm dài xanh rờn, nhấp nhô trên ngọn sóng.
Và... Ðằng xa kia là Bảy Núi, nơi mà giờ này thằng Nhi và hai con trâu của chú
đang tung hoành, sắp lội nước hằng mươi cây số để vượt ra mé biển đến vùng rừng
tràm miệt Linh Quỳnh.
Rừng
tràm xanh đậm, rọi xuống mặt nước đỏ ngầu, rung rinh. Nhứt là về đêm khi trăng
chiếu, đom đóm bay về đậu khắp nhánh tràm như họp chợ phiên! Hồi thuở nhỏ, chú
đến đó nhiều lần. Cảnh ấy bây giờ thay đổi vì nhà nước đã đào thêm con kinh
Xáng Rạch Giá – Hà Tiên và đắp xong con lộ đá. Trâu vượt qua lộ xe hoặc ngủ tạm
trên lộ cho tới sáng. Lội dưới nước lâu ngày, móng trâu trở nên mềm, đứng trên
đá, trâu đau chân. Chú Tư bỗng hình dung trước mặt một cảnh tượng oai hùng, khi
mặt trời vừa lố dạng, đàn trâu phải rút vào rừng tìm nơi ăn nằm. Nhà nước đắp lộ
xe nào phải để cho trâu đứng, phá hoại... Trâu chạy ầm ầm. Không mấy chút, tràm
gãy rôm rốp ngã liệt xuống, lõm rừng trở thành một cái đầm rộng lớn. Người len
trâu tạm nghỉ ngơi vài ngày. Mấy “tay riều” đốn củi gần đó tụ họp lại làm quen,
đánh bài cào, uống rượu, đốt lửa lên bàn chuyện tiếu lâm. Lắm khi họ sắp đặt
công việc đi ăn cướp, ăn cướp kẻ khác và ăn cướp lẫn nhau. Mấy tay len trâu giựt
tiền của tay riều; mấy tay riều xúm nhau giựt trâu của mấy tay len. Rừng lại đẫm
máu... Trong cuộc xô xát dao búa đó, sanh mạng của con người như con kiến, hà
huống chi đứa trẻ bé bỏng như thằng Nhi, con trai chú!
Chú
Tư giựt mình, e ngại.
Trong
giấc mơ, có lẽ thiếm Tư không tưởng tượng được tới cảnh chém giết rùng rợn đó.
Thiếm nói lảm nhảm rồi lại trở mình, ngáy khò khò.
Tháng
mười, nước giựt xuống. Ðến cuối tháng, mặt ruộng lộ ra, cỏ non nhú mọc xanh
tươi đến tận chân trời. Mưa dứt sớm. Núi non lại trở nên hùng vĩ. Suốt mùa, lúa
nương theo nước mà vươn lên đến bốn năm thước; bây giờ lúa nằm rạp xuống đất,
chồng chất cao ngùn ngụt. Cái sàn nhà của chú Tư cũng hạ xuống. Cuộc sống trở lại
bình thường.
Ðêm
ấy, quá canh ba, có tiếng kêu vang dội:
-
Ba ơi ba! Má ơi má! Trâu mình nè...
Chú
Tư, thiếm Tư mừng quýnh, tốc mùng chạy ra: Thằng Nhi về đó, coi dị hợm hơn mọi
ngày, máng trên vai một đống gì cao nghệu. Chú Tư xanh mặt. Nó thảy đống ấy xuống
đất:
-
D.m. chết hết một con. Ðem cặp sừng bộ da của nó về nè! Nặng gần chết. Ð.m.
không lẽ bỏ luôn.
Thiếm
Tư mếu máo, mừng vì gặp được con, buồn vì mất hết phân nửa gia sản:
-
Mô Phật. Mạnh giỏi hả con? Trời ơi! Con đi theo coi chừng mà làm sao nó chết? Dọc
đường con có đau ốm gì không... Con, Con...
Chú
Tư im lặng, buồn buồn. Mừng con, tiếc của là một lẽ. Nhưng còn lẽ khác đáng lo
ngại hơn... Hồi nào tới giờ, thằng Nhi ăn nói đàng hoàng mà chuyến về này,
trong câu nói hồi nãy, nó pha vô hai lần chửi thề mà nó không hay.
Thiếm
Tư nhìn cặp sừng và bộ da trâu mà rơi nước mắt:
-
Thôi! Lần này lần chót. Năm tới bán con trâu còn lại, không làm ruộng nữa. Ðất
nước gì kỳ cục quá, cái xứ này...
Chú
Tư nghiêm mặt:
-
Nói bậy nữa đi. Ðất của mình, nước của mình mà bà dám nguyền rủa hả? Hồi nào
cúng vái, bà nói bà phục ông bà đất nước lắm mà...
Thiếm
Tư đi ra sân lo đốt lửa để un trâu. Chú Tư cũng đến vuốt ve con trâu còn lại rồi
trở vô thấy thằng Nhi đang chụp gói thuốc rê trên bàn; nó mở ra, xé giấy vấn
hút phì phà một cách tự nhiên, ngon lành.
-
Ghiền rồi hả mậy? Chú hỏi.
-
Hai ba bữa rày, hút có mấy điếu. Ở rừng, họ hút kịch liệt lắm kìa... ba.
Chú
Tư đem chai rượu đế ra, rót vào chén. Chú thấy thằnh Nhi hít mũi lia lịa.
-
Nhậu thì nhậu một chút cho ấm đi! Cỡ này mày sanh nhiều tật lạ.
Rồi
chú day ra sân mỉm cười:
-
Bà nó ơi! Coi thằng con của bà nè! Nó giống hệt tôi hồi nhỏ quá chừng.
Thiếm
Tư chạy vào, không hiểu rõ đầu đuôi. Thiếm lau nước mắt rồi nấu cơm cho thằng
Nhi ăn, dọn mùng cho nó ngủ... Chú Tư thức mãi tới khuya, thỉnh thoảng hé mùng
dòm thằng Nhi. Mùng rộng rãi nhưng nó vẫn co rút như hồi nằm trong nóp chật hẹp.
Tay và bụng của nó xăm đầy những chữ nho, chữ quốc ngữ. Không cần đọc kỹ, chú
đoán đó là “ngũ hồ tứ hải giai huynh đệ” hoặc “ái tình vạn tuế” mà một tay hảo
hớn nào đã xăm cho nó.
-
Mình không lỗ lã gì đâu! Chú Tư lẩm bẩm một mình.
Chuyến
đi len trâu này, đứa con của chú mhiễm nhiều tật xấu nhưng nó khôn lớn hơn,
nghe thấy được nhiều việc mà ở nhà chú không nghe thấy. Chú ra sân. Dưới ánh
trăng suông, con trâu Pháo bước tung tăng, nhịp móng xuống lớp phù sa mát rượi,
đứng trên mặt đất hôm nay mà sao thấy hơi khác lạ hơn mặt đất hôm nao, cũng ở
chốn này. Nó hinh hỉnh lỗ mũi như cố phân biệt mùi thơm của cỏ núi hoa rừng với
mùi thơm của mùi lúa sạ đang độ chín.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
namkts57@gmail.com