Người Mù Giăng
Câu
Sơn Nam
Ðứa
con trai độc nhứt của ông đã bị “A lơ măn” (người Ðức) giết lúc phải cầm súng
giữ vùng An Sác Lo Ren cho Pháp. Ta có thể nói: ông mù vì khói lửa của trận Âu
châu đại chiến kỳ nhứt. Còn lại một mình, ông cất căn chòi ở Rộc Lá, ấp Tây
Sơn. Rộc là con rạch nhỏ ngoằn ngoèo, bắt nguồn từ môt gò đất cao giữa đồng, chảy
thẳng vào một cái lung, phần đất thấp hơn, đầy những rau muống, cóc kèn, ô rô
và cá.
Ở
Rộc Lá này, cá tôm quá nhiều so với mấy nơi khác trong ấp. Từ tháng mười đến
tháng giêng, cá lội từng bầy trở về sông Cái, suốt ngày suốt đêm không ngừng.
Ban ngày, cá đi đớp bọt, trắng bờ rạch. Ban đêm thức giấc vào bất cứ lúc nào,
ta cũng nghe cá lóc táp mồi, cá trê chép miệng kế bên nhà. Nguồn lợi to tát vô
cùng!
Nhưng
nào đâu cái cảnh “Một vùng trời đất vui thầm ai hay?” Cá ăn câu về đêm. Muốn
giăng câu phải thức trót canh gà, thức bốn năm tháng ròng rã, hao phí bao nhiêu
sức lực! Ngày thì đi gặt lúa mướn, thời giờ đâu để ngủ bồi dưỡng lại. Ðêm thì
muỗi mòng, gió bấc lạnh, lắm khi gặp mưa. Nhiều em bé đuối sức ngủ gục, té xuống
sông, leo trở lên xuống ướt loi nhoi như chuột...
Ông
thường bảo:
-
Phải có kinh nghiệm mới đỡ cực nhọc. “Con cá trương vi quạt đuôi ra biển Bắc
thì còn mong gì cá ấy trở lại chốn cũ ao nhà”. Câu ca Vọng cổ đó nói sai. Cá có
hang ở sông Cái. Mùa mưa, cá tìm đường lên ruộng, vào rừng mà đẻ. Bắt đầu mùa hạn,
cá bỏ ruộng, bỏ rừng quay trở về hang cũ ở sông. Sự khôn ngoan của con người là
chặn chuyến về của loài cá. Chặn cho đúng nơi, đứng lúc.
Vào
đầu mùa, cá thường ăn mồi khi nước lớn. Giữa mùa, cá ăn lúc chạng vạng, lúc
trăng sửa soạn mọc. Hừng sáng, chừng đâm mây ngang, cá trở lại ăn một lần chót.
Khó
nhứt là chọn nơi để giăng câu. Cá sợ ngọn nước ngoài biển chảy tràn vào sông. Gặp
nước mặn, cá hết nhớt ngoài da, con mắt xốn xang, nhưng nơi nước quá ngọt lại
ít có cá vì cá chưa đi tới. Cá tập trung nơi lằn ranh nước lờ lợ và nước ngọt.
Tại
lằn ranh đó, nên biết chọn từng điểm nhỏ. Rạch nào lắm ghe xuồng qua lại, cá ăn
ở sát bờ. Rạch nào im lặng, cá lội ngay giữa dòng. Trước khi giăng cá trê, phải
quậy cho nước đục. Mỗi chỗ cá chỉ ăn một lần. Vì nó đi lưu động, mình nên khéo
dời chỗ...
Gió
bấc thổi ròng rã, cá lần lần về sông Cái. Nếu bỗng nhiên trời trở nực, chuyển
mưa, cá lui trở lại rừng và không ăn mồi. Những ngày ấy, đi giăng câu cũng hoài
công.
Có
người chất vấn: Ðã mù sao còn giăng câu được?
Ông
đáp:
-
Mù lòa là mắt không thấy, chớ nào phải vô tri vô giác? Con người có thể thấy bằng
lỗ tai, bằng hai bàn tay, bằng mũi... Nghe hát máy, thiên hạ đâu dùng cặp mắt
mà vẫn hiểu thấy được cảnh ly biệt, cảnh giặc giã... trong vở tuồng! Ban đêm, nằm
nhà đóng cửa lại, tắt đèn nhưng thiên hạ vẫn thấy hiển hiện cảnh ngoài trời: ếch
nhái kêu, tàu chuối phất phơ, chó sủa ma hay sủa kẻ trộm. Người ta thường nói:
"xanh mát, đỏ hực". Mát, là màu xanh, màu đen. Nóng, là màu vàng, màu
đỏ. "Bần hàn", là nghèo lạnh. Vô nhà nào mà mình có cảm giác lạnh lẽo,
đó là nhà nghèo. Gặp người bạn, rờ lên vai áo thấy rách, chắc là người ấy đang
suy sụp... nghèo "rã bánh tô". "Ði lâu", là đường dài.
"Ði mau" là đường ngắn. Tôi thường bơi xuồng đến tiệm mua đồ một
mình. Trong kinh nhỏ có bông súng cản mái dầm, khó bơi. Tới ngã ba, khúc quẹo,
là chỗ nghe tiếng con sáo, con cưỡng ăn trái trên cây gừa bên miễu ông Tà. Gần
mương vàm, hơi xông nồng nực, hôi tanh vì nước ít lưu thông. Chưa tới tiệm, có
cầu ván bắc ngang. Chân cầu lớn lắm, tôi thấy nhột nhột màng tang, vì sợ đụng.
Người mù có thể vá quần áo. Lại còn nấu cơm, nghe tiếng củi nổ, nghe hơi nước
nóng để biết cơm sôi, cơm khét... Tóm lại, thiếu cặp mắt vẫn còn sống được! Người
ta có đủ cột kèo thì cất nhà lớn, đúng ni tấc. Mình đây đui mù, như thiếu cây cột
cái, nhưng nếu khéo léo một chút cũng cất được mái nhà nhỏ che gió che mưa...
hà huống là việc giăng câu! Giăng câu lúc ban đêm, cặp mắt không cần thiết. Người
không mù, họ đốt lửa trước xuồng un muỗi cho vui mắt, ấm lòng, chớ nào phải soi
đường đi. Ðó là chưa nói tới loài cá! Nó ở dưới nước, núp trong cỏ, người có mắt
cũng như tôi, làm sao thấy cá được. Phải dùng óc xét đoán để hiểu tánh ý của
nó, nhờ đó mình mới giăng được nhiều cá, ngày càng vui thú với nghề nghiệp của
mình.
Dân
trong xóm thường gọi ông là ông Vân Tiên lại có biệt danh là “Sư tổ giăng câu”.
Dường như tạo hóa đã dành cho ông một số phận: sinh trong thời pháp thuộc, chết
trong thời Pháp thuộc. Nhưng chúng ta hãy tưởng tượng rằng ông còn đó, đêm đêm
hiện ra ngồi trước mũi thuyền, trên sông nước, không phải để làm ma nhát những
người yếu bóng vía nhưng để giải nỗi lòng đối với con cháu đời sau.
Ðêm
tạnh vắng. Trăng sao đều khuất trong sương mù.
Nước dưới kinh lạnh ngắt. Bếp un đỏ lên,
xua đuổi đàn muỗi rừng. Khói bay lan tỏa, lẫn lộn vào mái tóc bạc, chòm râu bạc.
Thỉnh thoảng, gà gáy lên eo óc.
Lền khên rong đuôi chồn, Ðặc nước, bông
súng bông.
Ô ro và ráng, sậy, Mọc đầy theo mé lung.
Mắm đen, chen dà diệp, Che khuất mấy
cánh đồng.
Nơi đây, nơi giáp giới, Ba ngã, một đường
lung. Ðôi mắt ông vẫn còn trập trừng. Miệng ông vẫn còn nói lên mắp máy, buồn
buồn, chậm rãi.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
namkts57@gmail.com