Đứa Con Nuôi
Nguyễn Khải
Thế
nào, cháu đã mỏi chân chưa?
Cừ,
chủ nhiệm chính trị nông trường dừng lại hỏi rất âu yếm đứa con gái chừng mười
ba, mười bốn tuổi đi sau anh vài bước. Đứa bé hai tay xắn lấy quần, chăm chú
tránh mấy vũng nước, rồi ngẩng lên, ngước đôi lòng đen rất sáng nhìn người hỏi:
-
Mới đi được có mấy bước bác đã sợ cháu mỏi chân... Có bác mỏi chân thì có.
Cừ
để cho đứa bé đi trước mình, nhìn cái dáng nhỏ nhắn của nó cứ chao đi chao lại
trên mặt đường nhầy nhụa bùn vì cơn mưa đêm trước. Lượt vải chiếc áo sơ mi nâu
may quá rộng trườn qua trườn lại trên cái lưng rất ngắn, một mái tóc cắt đến
gáy cũn cỡn, hai cái bụng chân rất gầy, tất cả cái vẻ đằng sau của đứa bé sao
mà tội nghiệp và trái tim Cừ như bị thắt lại vì những ý nghĩ thương xót. Quê nó
ở Hà Đông, bố mẹ đã hy sinh trong kháng chiến, từ đó nó đi ở cho hết nhà này đến
nhà khác, cuối cùng theo vợ một đồng chí cán sự ở châu lên Điện Biên, giúp đỡ
chị ấy khi sinh nở. Nó đã ở với gia đình nọ được nửa năm, sau không hiểu vì lẽ
gì lại bị đuổi, bơ vơ mất mấy ngày ở ngoài phố. Chuyện ấy đến tai Cừ, anh nảy
ra ý định nhận đứa bé ấy làm con nuôi. Anh đón nó về ban chính trị trưa hôm
qua, và sáng nay nhân ngày chủ nhật anh đưa về chỗ vợ ở đội sản xuất số 6. Đồ đạc
của nó vỏn vẹn chỉ có một cái ba lô đã sờn hết mép (không hiểu ai đã cho nó),
chăn màn không có. Ngay chiếc ba lô anh đeo trên vai đây cũng rất nhẹ, tuy các
cạnh rất vuông vắn. Anh lại hỏi:
-
Cháu có áo rét không?
-
Cháu chẳng thấy rét bao giờ bác ạ, có một cái áo trấn thủ nhưng cũng không mấy
khi cháu mặc đến.
-
Rét Điện Biên không như ở dưới xuôi đâu, mặc phong phanh là dễ ốm lắm đấy.
Hai
người đến bờ sông Nậm Rốm thì đã gần trưa. Đứng bên này chiếc cầu bắc bằng những
miếng sắt lát sân bay ngày trước, nhìn sang bên kia bờ Cừ ngạc nhiên vì mới có
nửa tháng không qua đây mà khung cảnh đã như đổi mới hẳn. Tre măng mọc vút lên,
vượt hẳn những lớp lá lăn phăn của bụi tre già. Mo nang ở các đốt tre ôm chặt lấy
từng gióng, vàng nượm như bụng rắn, ở các đốt đã chìa ra những nhánh rất nhỏ, mấy
chiếc lá non bám vào mỏng mảnh như những nét phảy. Những cụm cỏ nghệ mới đây
còn xanh tốt như rừng, bây giờ đã bắt đầu vàng sẹm, chùm hoa ở giữa gốc màu tím
điều cũng héo hon, sắp hết mùa cỏ dại rồi.
Bước
qua cầu, Cừ đi sát cạnh đứa con nuôi, và bỗng nhiên anh thèm muốn được gọi nó
là con, nhưng con bé vẫn coi anh như người xa lạ, nó gọi anh bằng bác với cái vẻ
tự nhiên, vốn đã là một cách xưng hô quen thuộc của nó đối với nhiều người. Anh
mỉm cười gượng gạo, nói khẽ:
-
Ở đây hơi xa phố cháu đừng buồn nhé.
Con
bé lặng im một lát, mãi nó mới nói, giọng rất đanh như người lớn tuổi:
-
Cháu ở đâu cũng được bác ạ.
Trò
chuyện với một đứa con gái mới mười bốn tuổi trong một buổi tối và suốt dọc đường
từ nông trường bộ về đến đây, Cừ luôn luôn ngạc nhiên vì những câu trả lời bất
ngờ của nó. Anh vừa thương hại, vừa khó chịu vì nó đã khôn ngoan quá sớm, nó
già hơn tuổi vì những lời lẽ đối đáp rất tinh khôn, và tính toán chi li đến từng
câu trả lời. Nhìn những mái nhà nổi lên thành một dải vàng nhạt trên những ngọn
me dại, xoan và những cây chó đẻ, con bé khẽ kêu lên:
-
Đến rồi hở bác, chóng quá nhỉ, cháu tưởng còn đi xa nữa.
-
Ta rẽ ra đồng thăm lúa một chút. Chỉ vài hôm nữa ở đây vào gặt rồi. Bận lắm đấy.
Trèo
qua một cái giá tre có bực thang dựng lên trên hàng dây thép gai ngăn trâu bò
là khu vực trồng lúa nương của nông trường. Những cây lúa cao ngợp đầu người,
ngả ra che kín cả con đường mòn chạy ở giữa. Bông lúa đã sạm vàng, nhiều bông
đã gục mặt, đôi bông mới uốn câu. Mép trấu hé mở để lộ ra những bao phấn mỏng mảnh
nắng đã se dần màu trắng, ở những chẽ trên mép trấu đã ngậm lại còn lòi ra một
chút đầu bao phấn hoe hoe vàng nhạt. Trong gió hanh tiếng lúa cọ vào nhau nghe
rất nặng, vừa khô vừa sắc. Cừ lách mình vào giữa rừng lúa, vừa đi vừa cúi xuống
nâng những cây ngả gạt sang hai bên. Hai cánh mũi anh co giãn rất nhanh, một thứ
hương vị nồng nhạt, thoảng thơm phảng phất khắp mọi chỗ. Đi theo mãi cái vách
thành kết bằng những hạt lúa dày kín ấy, hai người chợt bước ra một khoảng đất
trồng lạc rộng mênh mông. Lạc ba tháng đã ra hoa, hoa lạc ẩn dưới gốc vàng
chói, chập chờn như những cánh bướm, màu lá lạc được mưa xanh mỡ, trông non và
ngọt như cốm. Và khu nhà trống để máy kéo cũng đã kề sát ngay phía đầu bãi bên
kia.
Ngày
chủ nhật, bộ đội và anh chị em công nhân ra chơi phố và đi thăm các đội bạn gần
hết. ở mỗi nhà còn chừng mươi người đánh cờ tướng, tu-lơ-khơ, hoặc đẽo cán liềm,
gắn lưỡi hái, chuẩn bị cho vụ gặt. Cừ vừa đi ngang sau khu nhà trung đội I, có
tiếng gọi giật lại:
-
Anh Cừ về chơi đấy ư?
Cừ
ngoảnh lại, Quang tổ trưởng một tổ sản xuất đang nhìn anh cười, trước mặt ngổn
ngang đến chục cây giang và một bó lạt đã chẻ.
-
Lâu lắm mới lại gặp nhau. Lấy gỗ xong hôm nào thế? Không đi chơi đâu à?
-
Lại về đội được nửa tháng rồi anh ạ... Cũng định ra phố một tí nhưng các cô tiểu
thư lại nhờ chẻ hộ lạt. Mai vào gặt rồi... Cháu nào thế?
Cừ
chưa kịp trả lời thì con bé đã nghiêng đầu nhìn Quang, cười rất tự nhiên:
-
Cháu về đây để gặt giúp các chú mấy buổi.
Quang
cười to:
-
Ra thế, vậy chú xin xung phong cõng cháu ra ruộng nhé... Tối anh có rỗi tôi lại
chơi.
-
Thì về chơi chứ có về họp đâu mà không rỗi. Tối đến nhé, mình mới mua được gói
chè hương.
Chị
Lụa mấy hôm nay bị đau bụng nên nghỉ ở nhà. Chị ngồi một mình đang hí hoáy bóc
lạc. Cừ đứng sững ngay ở ngưỡng cửa nói to:
-
Đến nhà rồi đây !
Chị
giật mình quay ra thấy chồng đang nghiêng mặt nhìn về phía sau.
-
Ai đến chơi thế !
Vừa
lúc ấy một cái đầu nhỏ bé, tóc cúp ngắn ló vào:
-
Chào bác ạ.
Cừ
đặt ba lô lên giường, giới thiệu:
-
Đây là bác gái cháu, còn đây là cháu Tấm.
Chị
Lụa ngắm một lượt đứa bé xa lạ mới đến:
-
Con ai mà nhớn nhỉ?... Cháu mới ở quê lên hôm nào đấy?
Cừ
gõ gõ điếu thuốc lá xuống bàn, cười:
-
Con tôi chứ còn con ai, bố con tôi ngủ nhờ bà chủ đêm nay nhé...
Tấm
liếc nhìn cả hai người, rồi nó bưng miệng cười, hai con mắt sáng lên rất ranh
mãnh. Bằng một cử chỉ rất nhanh, nó chạy lại đầu giường xách chiếc ba lô để lên
một góc cái hòm gỗ, thành thạo như đã từng đến đây vài ba lần. Chị Lụa vẫn còn
đang theo dõi nó bằng con mắt dò xét thì nó đã cúi xuống gậm giường, hỏi:
-
Nhà còn đôi guốc nào cho cháu mượn rửa chân với. Và không đợi người chủ nhà trả
lời, nó đã lôi ra một đôi guốc mộc, quai dù từ góc một chân niễng:
-
Đây rồi, quai này là bền lắm nhé. ở trên kia có chú tích trữ đến hai đôi, cháu
hỏi xin một đôi chú ấy nhất định không cho... Sao có người độc bụng đến thế.
Mới
phút đầu con bé đã ăn nói quá lém lỉnh, chị Lụa đặt giá lạc lên bàn, nét mặt lạnh
nhạt hẳn, hỏi chồng:
-
Có ăn cơm nếp không để tôi lấy thêm gạo?
Cừ
cởi áo mắc vào chiếc đinh đóng trên tường, anh thấy vợ không vồ vập, ân cần đối
với con bé nên lựa lời giới thiệu thêm:
-
Con bé thông minh, nhanh nhẹn lắm, tôi nhận nó làm con nuôi đấy. Quê nó ở Hà
Đông, bố mẹ chết cả, đi ăn đi ở từ bé. Mình hiếm hoi có nó cũng vui...
Anh
định nói thêm thì tiếng Tấm đã léo xéo ở đầu chái:
-
Cháu là người nhà bác Cừ đấy ạ. Chốc nữa mời chú sang chơi.
Nó
định bước vào trong nhà thì chị Lụa gắt lên rất đột ngột:
-
Lại tha đất vào đầy nhà bây giờ...
Nó
đứng sững ngay lại, nét mặt đờ ra, nhưng rồi khẽ cúi đầu xuống đập đập đôi guốc
vào thềm hè. Từ lúc ấy nó không nói một câu nào, ngồi im lặng trên cái ghế dài
kê sát tường, lặng lẽ ngắm bà chủ nhà tính tình không lấy gì làm vui vẻ lắm...
Trong
khi Tấm tính toán thầm với riêng nó thì Cừ cũng để ý xem xét thái độ của đứa bé
khôn ngoan ấy đối với vợ mình ra sao. Càng nhìn anh càng ngạc nhiên vì cái
khuôn mặt kỳ lạ của đứa con nuôi, phía trán hóp lại gần như nhọn, dưới cằm lại
bành rộng ra theo hình vuông khiến nét mặt mất hết mọi vẻ thơ ngây, cái miệng rộng,
hàm răng to và đều như hàm răng của người con gái dậy thì, hai con mắt đắn đo,
dò xét, lấp lánh một vẻ tinh khôn, lanh lẹn đặc biệt.
Đột
nhiên chị Lụa hỏi nó:
-
Cháu năm nay mười mấy tuổi?
-
Tính cả tuổi mụ là mười bốn, cháu tuổi Sửu đấy. Tuổi Sửu là vất vả lắm.
Cừ
mỉm cười:
-
Cháu còn bé mà đã tin ở tướng số rồi à?
Bữa
cơm chiều Tấm tranh làm gần hết mọi việc. Mới đầu chị Lụa cũng giữ kẽ với chồng
không cho làm. Nhưng sau thấy nó cứ nằn nì, quanh quẩn không chịu đi đâu, hơn nữa
cơn đau bụng lại bắt đầu âm ỉ nên chị dặn dò một chút rồi đi nằm. Mâm cơm dọn
lên rất ngon lành, rau sào, đậu phụ rán, lại thêm một đĩa rau thơm, hành sống. Vào
bàn ăn Tấm cũng dành ngồi ngoài xới cơm. Vừa ăn nó vừa hỏi chị Lụa ở đây có vại
muối dưa không, có lọ to để ngâm dấm đu đủ không, có biết cách làm đậu phụ nhự
của miền Nam không?
Cừ
nghe nó hỏi cặn kẽ mọi việc như một người nội trợ đảm đang, anh bật cười:
-
Có làm được không mà hỏi lắm thế?
-
Cháu vẫn làm mà lại.
-
Vậy bác đề nghị bổ sung cháu vào tổ nuôi quân nhé.
-
Nhưng lò bếp của các chú ấy đắp cao quá bác ạ.
Trong
bữa cơm chị Lụa đã nhìn Tấm bằng con mắt dịu dàng hơn, con bé tuy ít tuổi nhưng
làm ăn đâu vào đấy. Dù có phải nuôi mỗi tháng mất vài chục bạc nhưng khi ốm đau
đã có người săn sóc, đỡ đần... Chỉ phải tội mặt mũi nó trông láu lỉnh, xảo trá
quá. Rồi chị cứ miên man suy tính thiệt hơn, có lúc thấy nó cần thiết cho mình,
có lúc lại thấy nó là gánh nặng cho mình, cho nên chị cũng không hẳn tỏ ra cởi
mở, dễ dãi, nhưng cũng không đến nỗi lạnh nhạt, cau có như lúc đầu. Còn Tấm
không phải chỉ hỏi một cách vô tư, nó cũng nghĩ về nó, về thái độ của hai người
chủ nhà, và tự bảo thầm: "Mình ăn mấy vực cơm nhưng đã làm cho bà ấy cả buổi
chiều, mình không ăn xin, nay mai bà ấy không thể kể ơn với mình được..."
Lên
đèn được một lúc, chị Lụa đã đun sôi ấm nước thì Quang cầm một cây mía bước
vào.
-
Mía tăng gia của tổ đây, trồng được mấy bụi ăn phí ăn hoài gần hết cả, còn được
vài cây phần anh.
-
Có ngọt không?
-
Mía Điện Biên còn phải nói... Cháu có ăn mía không hay sợ sún răng?
-
Chú làm cháu như là trẻ con không bằng.
-
Ái chà, thì người nhớn được với ai.
Cừ
liếc nhìn Tấm ngồi thu lu ở một góc giường, định nói: "Nó bé nhưng có khi
còn khôn hơn chú đấy", nhưng lại thôi. Chị Lụa đã đắp chăn đi nằm. Cừ lấy
một lọ trà đưa ra trước đèn khoe với Quang:
-
Cậu thử nhìn xem là nhãn hiệu gì?
Quang
nhìn chăm chú rồi cười ầm:
-
Sao lại đựng trà vào lọ thuốc điều kinh của bà ấy?
-
Đấy ông xem, vợ thì thuốc điều kinh, chồng thì trà hương hảo hạng, cái này đựng
vào cái nọ, hết lọ nhớn đến lọ bé làm gì mà không tiêu ma cơ nghiệp.
Quang
nhìn đồng chí chủ nhiệm, người anh và cũng là người bạn tâm phúc từ ngày anh
vào bộ đội đến nay. Sáu, bảy năm rồi, con người ấy hầu như không thay đổi mấy.
Vẫn hàm râu quai nón không mấy khi được nhẵn nhụi, cái cười sảng khoái, rộng
rãi, chan chứa thương yêu. Vẫn lối nói thẳng thắn, không e nể một ai, không giấu
giếm một cái gì. Vẫn cách sống ồn ào, sôi nổi, thích đùa cợt.
Cừ
dốc một ít trà vào lòng bàn tay, khẽ nghiêng nghiêng mé tay soi vào ánh đèn, rồi
hỏi Quang:
-
Uống đặc được chứ ! Hôm nay nói chuyện lâu một tí, cần gì ngủ sớm.
-
Anh còn nhớ hồi đi chiến dịch nấu nước trà bằng ống cát cút không?
-
Ừ, ừ... thế mà lúc uống vẫn say sưa, thú vị nhỉ. Mình cứ nhớ một cái ống cát
cút bọc giấy báo đút vào túi áo ca-pốt, đến chặng nghỉ múc ít nước suối, móc
hai quai vào cành cây, ông "con rể" đốt một bó đuốc hơ, chỉ năm phút
nước đã sôi ùng ục, cho vào một dúm trà búp, cái thứ trà chiến lợi phẩm ấy mà.
Thế là bố con, bạn bè quây lại xuýt xuýt, xoa xoa, đến hay... Nhân nói chuyện
xưa lại nhớ đến thằng "con rể", nó hy sinh ở Mường Khoa nhỉ. Thằng ấy
còn sống thì không chừng cũng trở thành cán bộ kỹ thuật hạng cừ. Uống đi không
nguội... Cháu Tấm có uống được nước trà không... không dám uống à... Cũng phải.
Chè chén nên nhường cho bọn già... Thế nào, kỳ về phép vừa rồi có được vui vẻ
không? Kết quả tốt đẹp chứ?... Không khéo cậu lại vượt vợ chồng mình cũng
nên... Căn bản là phải trẻ mới ăn thua, chứ má đã răn, gối đã mỏi thì thuốc giời
cũng đừng hòng.
Quang
hớp một ngụm nước, nét mặt hơi buồn buồn:
-
Anh cũng rõ hoàn cảnh gia đình của tôi rồi đấy. Từ ngày con bé cháu mất nhà tôi
cứ ngơ ngơ ngẩn ngẩn, mấy năm nay lại mắc chứng đau bụng, đi khám họ bảo bị
viêm tử cung, nhà nghèo bệnh trọng là thế. Thành thử một tháng nằm nhà đến hai
chục buổi. Một mình đã vậy, nhưng còn hai đứa em, một đứa lên mười, một lên bảy.
Chúng nó là con ông chú ruột tôi, cả bố lẫn mẹ đều hy sinh trong kháng chiến, họ
hàng chỉ còn mỗi vợ chồng tôi là gần. Dù rau cháo nhưng anh em đùm bọc lấy nhau
vẫn hơn đi ăn đi ở cho người khác... Mỗi lần về trông thấy chúng nó tôi không
sao cầm được nước mắt. Thằng nhớn đi học về rời quyển sách là đâm đầu vào bếp
đun nấu, thằng em thì đi tha thẩn khắp xóm, mặt mũi lem luốc như thằng quỉ. Tội
nghiệp, chúng nó biết là anh chị nghèo nên ăn thế nào cũng được, mặc thế nào
cũng xong, được cái cả hai anh em nó đều có sức nên ít đau ốm. Tôi nghiệm ra những
đứa bé đã từng nếm mùi cơ cực, lớn lên đều có chí cả, quẳng vào chỗ nào cũng sống
nổi... Không hiểu các cậu khác về phép có nhàn nhã không chứ tôi thì vất vả gấp
mười lần ở đơn vị. Vợ ốm, em thì bé, không xoay trần ra tranh thủ mấy chục điểm
rồi đến mùa thì ăn gì. Kể ra nếu ngày ngày thắng bộ quần áo mới, đi đôi giày vải
lấp ló hai cái cổ bít tất trắng, một bao Hoàn Kiếm hoặc Bông Lúa đút túi quần,
la cà nhà này nhà khác, thăm hỏi trò chuyện, giảng giải chính sách thì trông ra
vẻ anh bộ đội về phép hơn. Đằng này mới từ mờ đất trên giường đã lăn xuống đất
rồi, chẳng kịp đánh răng rửa mặt gì, ăn vội vài bát cơm nguội, ngậm điếu thuốc
lá là ra đồng ngay. Buổi đầu thì dỡ khoai, buổi thứ hai thì tát nước, từ buổi
thứ ba trở đi là cày liệt vị, vì đang dịp cày mùa. Lại nói cái tối tâm sự trước
ngày lên đường. Vợ tôi cũng thuộc vào loại cứng rắn, đảm đang, nhưng có điều cô
ta chỉ cứng rắn được khi vắng mặt chồng, còn tối hôm ấy thì cứ khóc sướt mướt
như trẻ con. Cô ta kể lể ra nhiều nỗi lo lắng lắm, nào vợ chồng ăn ở với nhau
đã tám chín năm trời bây giờ một mụn con không có; nào là ốm đau luôn, cảnh nhà
lại túng thiếu, anh em kiến giả nhất phận, các em thì bé, gượng được thì khá, rồi
ra không gượng được nữa sẽ biết nhờ cậy vào ai. Tôi lại phải kiên nhẫn gỡ ra từng
mối một, nhưng cũng là giải quyết quanh thôi, động viên tinh thần là chính, vợ
vì thương chồng nên cũng dịu dần... Về nhà được mười lăm hôm tính ra những giờ
được ngồi trò chuyện với vợ, với em chẳng được bao nhiêu. Suốt ngày phơi mặt ở
ngoài đồng, tối họp hành xong về thì cũng đã khuya, đặt lưng nằm xuống là ngáy
bằng sấm... Vợ nó thấy cái cảnh ấy chắc nó cũng chán.
-
Nếu đem so với hoàn cảnh của cậu thì vợ chồng mình còn là dễ chịu hơn. Bây giờ
định giải quyết ra sao... Mình có thể đóng góp được gì trong cái việc này
không?
-
Bây giờ đưa vợ và em lên đây thì cũng dở dang, vợ ốm, hai em dại, có miệng ăn
mà không có tay làm, phụ cấp của tôi thì cáng sao nổi. Còn có nên nhờ anh em,
nhờ tổ chức hay không thì tôi nghĩ chưa nên, mới bị cái gai đã kêu ầm lên là xổ
ruột, người khác không cười thì tự mình cũng khinh mình là thằng nhát gan. Rồi
ra đâu vào đấy cả... ở thời buổi này không nên quá lo xa...Nếu tôi có nghĩ ngợi
là chỉ lo cho hai đứa em thôi. Nhưng tôi đã dặn dù thế nào chăng nữa nhất định
phải cho thằng lớn đi học, và cả hai đều phải được ăn đủ, mặc ấm. Thiếu thốn
đâu tôi sẽ trợ cấp thêm.
Câu
chuyện về phép của Quang hấp dẫn con bé đặc biệt, mắt nó nhìn người nói không
chớp và hình như nó cũng bị xúc động. Khi Quang nói xong nó khẽ thở dài, ngồi dựa
vào vách liếp:
-
Thế các em không phải làm gì để giúp thím à?
-
Chúng nó còn bé thì đã cất nhắc được gì.
-
Bé !... Cháu bằng tuổi chúng nó đã phải làm đủ mọi việc rồi đấy.
Quả
nhiên con bé là một tay làm ăn khá, không thua kém người lớn là mấy. Khi đưa Tấm
về tổ thanh nữ, đồng chí đội trưởng đã căn dặn Quang, người phụ trách tổ đó,
không nên để Tấm làm việc nặng, có thể chỉ nên cho làm nửa ngày còn nửa ngày học
văn hóa. Một tháng qua đi, khi phân công hàng ngày, chính Quang cũng đã quên rằng
Tấm mới mười bốn tuổi, bất cứ việc nào con bé cũng làm được thành thạo, gọn ghẽ.
Nó cũng bắt chước các chị lớn tuổi, lấy một mảnh vải bịt tóc, quấn mùi xoa vào
cổ tay lau mồ hôi, sau giờ làm nó kỳ cọ tay chân rất tỉ mỉ, lấy kim băng nạy từng
hạt đất nhét vào vết nẻ ở gót, chải chuốt, ngắm nghía, hầu như không có một
chút mệt mỏi nào, không cần một sự cố gắng nào, bình thường, tự nhiên như vốn
đã là một nếp sống từ ngày bé. Tấm dành một tình cảm rất đặc biệt đối với
Quang, vì anh ấy là anh của hai đứa em mồ côi, anh ấy lại là người tốt nhất nó
chưa bao giờ được gặp, gia đình neo bấn mà vẫn nuôi nấng hai đứa em được đầy đủ,
không bắt chúng nó phải làm lụng vất vả, không hành hạ, đánh mắng. Nó tin anh,
thích được tâm sự với anh, và ao ước có được một người anh trai như thế.
Một
buổi đứng đạp máy tuốt lúa cùng với Quang, Tấm chợt hỏi:
-
Cháu làm như thế này đã được coi là công nhân chính thức chưa hả chú?
Quang
thầm nghĩ chắc con bé này muốn tỏ cho mọi người biết mình đã là người lớn rồi
đây, muốn thành nữ công nhân để đi lấy chồng chăng. Anh mỉm cười:
-
Nào có ai bảo cháu là bé đâu.
Nét
mặt nó vẫn nghiêm trang, nó ngập ngừng một lát rồi hỏi tiếp:
-
Như thế thì cháu có được chính phủ cấp lương cho không?
Quang
đờ mặt ra không trả lời được, khi phân công anh coi nó như một người lớn, nhưng
lúc trò chuyện anh vẫn nghĩ nó còn là một đứa trẻ con, làm được chút nào hay
chút ấy, còn ăn uống, may mặc đã có vợ chồng anh Cừ rồi.
-
Cháu cần tiền tiêu vặt à, ăn uống đã có nơi rồi còn gì.
-
Không, cháu muốn tự kiếm lấy, cháu không thích ăn nhờ vào bác Cừ.
Chắc
lại có chuyện gì xích mích giữa chị Lụa và con bé đây. Anh gợi chuyện:
-
Bác Lụa là người tốt lắm đấy, chú xem bác ấy cũng rất quý cháu...
Nó
lặng im, nhưng rồi khẽ "xì" một tiếng nhỏ:
-
Tốt, cháu chẳng tin ai tốt cả. Các cô ấy làm được tiền còn may sắm cái này cái
nọ, cháu muốn mua thước vải cũng chẳng biết xin ai.
-
Cháu không nên giữ kẽ thế, thiếu gì phải nói các bác ấy mới biết.
-
Cháu nói riêng với chú nhé, chú đừng nói lại với ai đấy... ở đây cháu thấy chỉ
có chú là tốt thôi. Bác Cừ đưa cháu về cũng là muốn cháu hầu hạ vợ bác ấy. Nói
là nhận làm con nuôi nhưng lại làm quá người ở. Cháu đi ở nhiều nơi rồi cháu biết.
Bây giờ, cháu còn làm được thì nhận làm bố con, bác cháu, nay mai cháu thử ốm
xem là người ta sẽ tìm cách đuổi đi ngay đấy... Chú ơi, chú thử hỏi cấp trên
xem như cháu thì có được hưởng tiền lương không. Nếu có tiền cháu sẽ thổi cơm lấy,
ăn uống thật tằn tiện, dành dụm được ít nhiều thì đỡ lo những ngày ốm đau...
Vừa
nghe Tấm kể lể, Quang vừa nhìn hai cổ tay gầy guộc rám đen của nó xoay đi xoay
lại lượm lúa, hai cái bả vai hơi co lên, nhìn qua những kẽ ô thưa của thứ vải mặc
đã lâu ngày thấy lờ mờ những chấm trắng của da thịt, tự nhiên mắt anh cay xè,
phía trong hai cánh mũi nóng ran xộc lên đến đỉnh óc. Anh định nói thêm một câu
gì nhưng không thể nói được nên cứ cắn môi im lặng. Con bé vẫn nói miên man về
những lo lắng của nó:
-
Ví thử như cháu ốm thì có phải mua thuốc không hả chú, hay là được chú y tá
phát? Cháu sợ ốm lắm chú ạ, ốm vừa buồn, lại hay tủi thân, nhưng cháu chẳng
khóc bao giờ... Mấy cô ở đây mới đau bụng một tí đã khóc ầm lên để bao nhiêu
chú phải đến dỗ, rồi nào thuốc uống, nào thuốc tiêm. Như cháu ấy à... cháu cắn
răng lại mà chịu, không phải là cháu không muốn khóc đâu, không muốn rên đâu,
nhưng nếu rên khóc người ta sẽ cho là ốm nặng, sẽ đưa cháu đi nhà thương, ở đấy
chết không ai biết, cháu cứ nghĩ như thế là lại chịu đựng được, và rồi cháu vẫn
không ốm...
Một
buổi sáng chủ nhật, hai chú cháu Quang rủ nhau vào rừng đào măng. Đằng đông mặt
trời vẫn nằm trong cái túi mây, nền trời trắng nhạt như cái bong bóng lợn. Bỗng
nhiên giữa cái màu xám xịt ấy xuất hiện một vệt nắng vàng óng chạy dài suốt các
bản dọc chân núi phía tây, và những cái mái nhà hình thang sáng rực lên như
tách khỏi nền đất đen sẫm, bay lơ lửng. Quang vừa đi vừa giảng giải những vẻ đẹp
mà anh rất mê say ở thung lũng Điện Biên này, buổi sáng như thế nào, vào lúc trưa
như thế nào, tối đến khung cảnh lại biến đổi ra sao. Rồi anh hỏi Tấm:
-
Ở quê cháu có đẹp được bằng đây không?
Nó
ngập ngừng một tí:
-
Cháu cũng chẳng biết nữa.
-
Thế cháu lên đây có nhớ nhà không?
-
Nhớ mấy cái bà mà cháu ở ấy à. Cháu ghét cay ghét đắng. Đi được là thoát. Toàn
những người bóc lột.
-
Họ là địa chủ à?
-
Không, không phải là địa chủ đâu chú ạ. Một bà làm bún, một bà gói bánh chưng
đem bán các chợ... Nhưng họ ác lắm. Cháu vẫn tức cái bà làm bánh kiếm được nhiều
lãi thế nhưng cho cháu ăn uống thật khổ, cơm một phần, sắn trộn vào đến bốn phần.
Vậy mà cũng không được ăn no đâu. Thức ăn toàn cà ủng, dưa khú, không sao ăn được.
Tính nết bà ta lại quắt quéo, ăn cắp như ranh. Có hôm bà ấy ra ruộng cà chua giả
vờ đi ngoài, rồi vừa ngồi vừa vặt cà chua đùm vào váy. Một hôm cháu ốm bà ấy phải
đi đưa bánh cho các hàng đặt. Đợi bà ta đi được một lúc, cháu lấy cặp tóc nậy
khóa chiếc hòm gian mở ra xem. Chú có biết trong hòm bà ấy cất giấu những gì
không? Một thúng gạo dự nhé, một niêu cá kho với thịt nhé, cà chua đi lấy cắp
cũng còn rất nhiều xếp đầy một góc hòm. Thì ra bà ấy vẫn ăn giấu cháu, hễ cháu
đi chợ là ở nhà bà ấy thổi cơm gạo dự ăn với thịt. Thảo nào lúc ăn với cháu bà ấy
và nhỏ nhẹ, chỉ hai lưng xới đã đứng dậy. Cháu thì xanh rớt, còn bà ấy thì béo
đỏ... Hôm ấy cháu tức quá, đã định đổ hết niêu cá đi, hay bỏ đất trộn vào cho
bõ ghét. Sau lại sợ bà ấy biết sẽ đuổi cháu, nên cháu thôi... Bây giờ cháu chỉ
ao ước làm được nhiều tiền, may mấy bộ quần áo thật đẹp như các cô ở đây, rồi
cháu sẽ về quê chơi cho các bà ấy biết mặt. Nhất định là cháu không chết đói
nhé, cháu lại làm được ra tiền. Lúc ấy rồi lại xun xoe, cháu cháu, thím thím
ngay đấy, để xin xỏ, vay mượn mà. Đừng có hòng cháu cho vay, họ vay được là họ
nuốt trôi ngay, mình bé cãi lại làm sao được...
-
Bây giờ ở quê cháu chắc cũng vào hợp tác xã cả rồi. Đời sống các bà ấy khấm khá
lên thì rồi tính nết cũng thay đổi, chứ không đến nỗi như cháu nghĩ đâu.
-
Úi giời, tính họ ác thì đến chết cũng vẫn ác. Cháu hỏi chú nhé, nhà chú cũng
nghèo tại sao chú vẫn nuôi được hai em cháu, chú vẫn cho các em được đi học.
-
À, à...
Anh
định trả lời vì đó là hai đứa con của những cán bộ đã hy sinh trong kháng chiến,
anh phải có trách nhiệm với chúng nó. Là vì anh là một quân nhân không thể giống
một bà bán hàng rong, nhưng lại sợ sẽ làm nó tủi thân, nghĩ ngợi thêm... Quang
vừa đi vừa chăm chú ngắm nghía những bụi tre rất dày, mo nang rơi đầy ở gốc óng
ánh màu trắng ngà. Tấm xách cái túi vải người Xá đi tung tăng phía trước, chốc
chốc lại ngoảnh lại hỏi:
-
Bụi này có măng không chú !
-
Đi sâu vào tí nữa, ở đây họ lấy hết cả rồi.
Đến
một bụi rất rậm, anh dừng lại cắm lưỡi thuổng xuống đất, bẻ những cành gai sang
hai bên, nghiêng nghiêng ngó ngó một lúc rồi nói to:
-
Đưa cái thuổng cho chú !
-
Chú cho cháu xem chú lấy như thế nào... Cháu chẳng trông thấy gì cả...
Những
mầm măng nhú lên trên mặt đất màu xanh thẫm sát những gốc tre mốc trắng, Quang
lách lưỡi thuổng qua những thân tre, luồn vào đúng chỗ có mầm, ướm ướm mấy cái
rồi lao mạnh mũi thuổng xuống đất, chiếc măng khẽ nẩy lên, rung rung một chút rồi
lại đứng ngay ngắn, anh khẽ lắc lắc tay cán, chiếc măng lùi dần vào phía trong
rồi nằm dài dọc theo chiều lưỡi, và rất nhẽ nhàng anh rút thuổng ra qua những kẽ
hở, cầm lấy cái măng đưa cho Tấm.
-
Đây, măng đây... nhưng phải bóc lượt vỏ ngoài ra, lấy cái nõn trắng ở trong
thôi. Để chú bóc thử cháu xem.
Anh
rút lưỡi dao ngắn đeo ở sau lưng chặt phía đầu vỏ ngoài bọc kín nhọn như búp
sen, rồi lại rạch một đường thẳng nữa, bóc lượt vỏ ngoài. Nõn măng thật đẹp, những
sợi lông xếp lại, mịn màng, nhóng nhánh trắng như bọc bằng xa tanh. Cái Tấm
không bỏ qua một cử chỉ nào của Quang, nó trầm trồ:
-
Đẹp quá chú nhỉ, mà cũng dễ lấy thôi.
Quang
vừa luồn lưỡi thuổng đào những chiếc măng khác, vừa giảng giải:
-
Cháu có trông thấy những cái vai trâu bằng tre không. Không phải do mình uốn
đâu nhé, tự nó uốn nó đấy thôi. Cháu xem, bụi tre dày thế kia, chen chúc nhau
thế kia, mầm măng muốn lớn lên là phải lách theo những kẽ hở, cho nên sau này gốc
nó mới bị cong queo. Âởy vậy mà đi tìm vai trâu phải mất hàng mấy buổi chưa chắc
đã chọn được cái vừa ý. Dùng vai trâu bằng tre thì bền hơn vai gỗ nhiều... Được
mấy chiếc rồi?... Thôi, sang bụi bên kia... Chiều nay hai chú cháu ta sẽ ngồi
thái mỏng ra xâu dây phơi độ vài nắng là cẩm như măng bán ở Hà Nội ngay.
Con
bé vẫn chăm chú theo dõi Quang, còn Quang thì vừa làm vừa kể những câu chuyện
thuộc về những kỷ niệm đã qua:
-
Ngày cháu lên trên này, cháu có để ý đến những rừng bương ở quãng giữa Mộc Châu
với Yên Châu không?
-
Có lẽ có nhưng cháu không để ý. Đến hôm nọ vào bản Cộng cháu mới được trông thấy
cây bương đấy, ở quê cháu không có bương.
-
Ở Yên Châu thì nhiều rừng bương lắm. Ngày mở chiến dịch Tây Bắc cuối năm 1952,
đơn vị chú toàn trú quân ở rừng bương. Những cây bương to bằng cái cột cái ấy,
cứ đẵn một khúc băm ra làm giát vừa một người nằm, lợp lán cũng lấy mo nang của
nó, chứ làm gì có thì giờ đi cắt gianh. Các chú đặt tên cho khu ấy là "khu
mo nang". Mùa đông có sương muối thì lá rụng hết, còn trơ lại những chùm
quả lủng lẳng bằng cái nón một... Cháu đưa túi chú xách cho, được ngày đi chơi
chú bộ đội lại bóc lột sức lao động.
Tấm
hơi nghiêng nghiêng đầu, một mảng tóc xòe ra che gần kín nửa mặt, chỉ thấy đuôi
mắt nó sáng lên óng ánh:
-
Chú Quang này, chú đi bộ đội từ bé à?...
-
Thôi, ta về đi, lấy thế đủ rồi... Đi thong thả chứ, vừa đi vừa nói chuyện cho
vui... Chú đi bộ đội từ năm mười tám tuổi, năm nay chú đã hai mươi bảy. Có chắc
sống được hai mươi bảy năm nữa không nhỉ? Tuổi thì mười tám nhưng chú chỉ nhỉnh
hơn cháu một tí thôi, thế mà đã vợ con đàng hoàng rồi... cũng tại các cụ cả.
Chú nhập ngũ được một tháng thì được đi chiến dịch Tây Bắc lần thứ nhất ngay.
Ngày cháu mới lên đây cháu có nhớ đồng bằng không?... Lại không à... Cháu thì
chẳng nhớ đến ai, chẳng vương vấn một cái gì. Bây giờ tiếng là cháu lên Tây Bắc
nhưng lại ở cái đất Điện Biên này thì có khác gì đồng bằng. Còn như ngày ấy sao
chú nhớ dưới xuôi đến thế. Bốn mươi lăm ngày toàn hành quân trong rừng, trời
mưa tầm tã, chỗ nào hơi có ánh sáng rọi vào trong bụng đã mừng khấp khởi, chắc
mẩm sắp được giải phóng con mắt đây, sắp ra đến đồng bằng rồi đây. Chẳng ngờ lại
quặt vào những chỗ bóng tối còn dày đặc hơn, núi vây quanh còn cao hơn. Có đêm
đồng chí đại đội trưởng đơn vị chú tuyên bố đêm nay chỉ đi mười hai cây thôi,
chú đã nghĩ ngay đến giấc ngủ ngon lành khi đến chỗ trú quân mới, vì mười hai
cây, chứ ngay đến hai mươi cây nào đã mùi gì, cùng lắm chỉ một hai giờ đêm là đến
nơi. Ai ngờ đêm ấy vẫn đi suốt cho đến sáng, chú vừa đi vừa tấm tức, bụng bảo dạ:
đã làm đến cấp chỉ huy mà còn nói dối chiến sĩ. Cháu có biết đêm ấy bộ đội đi
được bao nhiêu đường đất không, chắc nhiều lắm hả, không đâu, chỉ đi được có
sáu cây số thôi. Đường rừng mà. Anh em thì họ biết cả, chỉ riêng chú vì là tân
binh, lần đầu sống đất rừng núi nên mới nghĩ khờ khạo như vậy... Đã thế lại phải
cái tội hay ngủ, đang sức ngủ mà không được ngủ người nó cứ mụ mẫm đi, chân vẫn
bước theo anh em, nhưng tâm trí đã mê man chẳng còn hay biết chuyện gì xảy ra
chung quanh nữa. Chú tuy là tân binh nhưng đã láu, hễ bộ đội dừng lại năm mười
phút qua cầu, qua suối là chú tranh thủ ngủ ngay, ngủ đứng thôi, nhưng tay vẫn
đặt lên ba lô người đi trước, bên trên họ chuyển động là mình thức tỉnh ngay. Một
đêm chú cũng làm theo cái mẹo ấy, và cứ yên trí ngủ, ngủ mãi, rồi do linh tính
con nhà binh hay sao, tự nhiên mở mắt ra, thấy tay mình hình như vẫn còn bíu lấy
một vật gì, nắn lại kỹ... ai ngờ lại hóa ra mấu cây ổi cạnh đường, ngơ ngác
nhìn trước nhìn sau cũng chỉ còn lại một cây ổi với một chú... còn anh em thì họ
đã đi đâu từ lâu rồi...
-
Ngày cháu ở cho nhà bà bún cháu cũng thèm ngủ lắm chú ạ. Làm bún dùng đến là tốn
nước. Nhà có hai cái ang rất to, mỗi ang đổ bốn gánh nước chưa đầy. Cháu phải
gánh từ tờ mờ sáng cho đến quá trưa mới tạm đủ nước dùng, hai xương vai cứ tê
đi. Đến chiều lại vắt bún, đi đưa hàng, tối về nấu cám lợn chẳng được nghỉ một
phút nào gọi là có. Lắm tối ngồi băm rau cháu chặt cả vào ngón tay, máu chảy
lênh láng. Có buổi cháu đang nấu cám thế mà ngủ thiếp ngay lúc nào không biết,
rơm cháy lém cả ra ngoài, đến lúc bà chủ đi qua lấy que cời nện vào giữa đỉnh đầu
cháu, cháu mới sực tỉnh, nhưng đau quá không sao há mồm nói được. Đánh lúc đang
ngủ là dễ chết lắm đấy chú ạ. Thế mà từ ngày cháu lên đây lại không thấy buồn
ngủ nữa, trưa cháu cũng chỉ thích đi chơi, bữa nào ngủ được một tiếng lúc dậy mắt
cứ sưng húp như người khóc ấy.
Nó
kể cái câu chuyện không lấy gì làm vui ấy với vẻ mặt rất bình thản. Đối với nó
những hành động tàn nhẫn của người khác không có gì là lạ lùng, họ vốn là như
thế, còn nó, nó sinh ra để mà chịu đựng và chỉ ước ao sao mau lớn lên, khỏe mạnh
ra để chịu đựng được bền bỉ hơn. ở đời này làm gì có được mấy người tốt, còn đời
nó thì chắc là không thể sung sướng như người khác được.
Không
hiểu vào cái hôm nào đó thì Tấm bắt đầu thấy yêu chỗ ở của nó. Hồi nó mới về đây
chỉ độc có mỗi cái ba lô đã bạc, dăn dúm, còn ngoài ra không còn đồ đạc nào
khác. Nó có thể đặt vào bất cứ cái giường trống nào, hoặc ở nhà bác Cừ nó, hoặc
ở văn phòng của đội sản xuất, hoặc ở tổ thanh nữ. Điều đó chẳng có quan hệ gì,
và cũng chẳng làm cho nó nghĩ ngợi gì, đâu nằm được là nó có thể yên tâm rồi.
Nhưng dần dần đồ đạc của nó cứ nhiều thêm ra. Trước tiên chú Quang đẽo cho nó một
đôi guốc bằng gỗ lồng mực, đóng quai dù, đôi guốc trắng mịn, nét đẽo đều đặn,
cân đối, thật đẹp. Chú Khôi đội phó đổi cho nó một cái ba lô còn mới, màu xanh
biếc, vải rất dày. Chú Tý quản lý cho mượn một cái màn và một mền chăn. Rồi đến
chú Khang ở tổ mộc ghép mấy mảnh ván lại đóng cho một chiếc hòm nhỏ, bào nhẵn
nhụi, có cả ổ khóa làm bằng vỏ đạn hẳn hoi. Lần đầu tiên trong đời nó có một
cái đựng quá rộng và chắc chắn. Cách ít lâu bác Lụa may cho nó một đôi quần
láng đen Trung Quốc, hai cái áo sơ mi trắng, một chiếc khăn sợi quàng cổ. Các
cô ở tổ thanh nữ cũng tặng nó những chiếc kẹp ba lá không dỉ, vài cái vòng bằng
hạt cườm. Tất cả những thứ ấy nó đều cất vào trong hòm, và không quên bỏ vào mấy
hạt băng phiến. Bây giờ thì chỗ nằm của nó đã đẹp mắt và giàu có rồi. Một cái
chiếu dệt hoa cạp vải, đầu giường chăn, màn, gối thơm tho, sạch sẽ, trên nắp
hòm một lọ hoa bằng quả mìn nhảy quét lượt sơn xanh và vẽ chim hòa bình. Hễ lúc
nào rỗi nó lại sửa sang chỗ nằm cho đẹp mắt hơn, quét quáy khắp gian buồng cho
sáng sủa hơn và mở nắp hòm lôi ra tất cả những đồ vật nhỏ bé nhưng thật đáng
quý, xem xét, ngắm nghía. Và cái công việc trẻ con ấy đã gây cho nó sự thích
thú rất mới lạ. Nó bắt đầu yêu chỗ ở của nó, yêu cái gian nhà nhỏ bé mà nó chiếm
một khoảng giường.
Cho
nên buổi trưa hôm ấy khi nó đi gánh cát về thấy ngay trên giường mình để ngổn
ngang một cái tay nải rất to bằng vải xanh, một bọc chăn chằng dây ngoài rất kỹ
thì không thể không bực mình. Nó treo cái nón lên vách rồi nói to:
-
Đồ đạc của ai mà để mất trật tự thế này? Nó ghé đầu vào gian buồng phía trong
thấy một người đàn bà rất lạ mặt đang thì thào nói chuyện với bác gái nó. Nó
chào lí nhí rồi quay vội ra. Chị Lụa nói với người đàn bà kia:
-
Cháu Tấm đấy, cháu nó ở với vợ chồng tôi được hơn hai tháng rồi. Có nó cũng vui
cửa vui nhà.
Người
đàn bà kia nhìn theo Tấm bằng đôi mắt buồn rầu, không nói gì cả. Người mới đến
chơi là chị Lộc, vợ đồng chí Tề, trung đội trưởng ở tiểu đoàn 3, đơn vị cũ của
Cừ. Cả hai vợ chồng đều là người Thổ Lạng Sơn, lấy nhau từ năm khởi nghĩa,
nhưng ăn ở với nhau thì chưa đầy vài tháng. Chị lên Điện Biên với chồng đã được
nửa năm, nhưng nửa năm ấy chồng lại đi tuyển tân binh ở Hải Dương mất ba tháng,
về đơn vị được vài hôm lại đi học văn hóa. Rồi bị phù vì bệnh xưng thận phải về
quân y viện ở Hà Nội điều trị. Cách đây vài hôm Hà Nội đánh điện lên báo tin bệnh
tình anh ấy trở nên trầm trọng và mong vợ về thăm. Tiền riêng của hai người chỉ
có hơn chục bạc, anh em trong đơn vị giúp thêm được hai chục nữa. Đi ô tô thì
chậm, đi máy bay thì không đủ tiền. Trong lúc nguy ngập, bối rối chị tìm đến vợ
chồng Cừ nhờ sự giúp đỡ. Suốt bữa cơm, Tấm hết sức chú ý đến người khách buồn rầu
này. Cô ấy cũng phải trên ba mươi tuổi, răng bịt vàng ba, bốn chiếc, mặc cái áo
cánh màu xanh trứng sáo, quần vải thô ruộm bùn, một tay đeo chiếc vòng nhựa màu
đỏ. Cô ấy chỉ ăn được có hơn bát đã buông đũa đứng dậy, mắt cứ hoe đỏ, mòng mọng
như sắp khóc. Gần tối thì Cừ đạp xe về. Vừa trông thấy Cừ, chị Lộc đã nức nở:
-
Anh ơi, nhà em nguy mất anh ạ... Hà Nội họ đánh điện lên.
Rồi
chị móc túi lấy ra một mảnh giấy màu xanh đưa cho Cừ. Anh cầm lấy xem rất kỹ, rồi
khẽ hỏi:
-
Chú ấy về nằm Hà Nội được gần tháng chưa nhỉ?
-
Mới có mười tám ngày.
Chính
Cừ cũng ngờ rằng người bạn chiến đấu cũ của mình khó mà qua khỏi, nhưng biết
làm thế nào. Chị ấy đang cần những lời khuyến khích, những câu nói tràn đầy hy
vọng để lấy thêm sức chịu đựng cho những ngày tới. Anh làm ra vẻ vô tư:
-
Họ đánh điện như vậy là thường chứ có phải trường hợp đặc biệt lắm đâu. Tôi cho
là chú ấy muốn cô về phục vụ cho tiện đấy thôi.
-
Không biết có phải thế không... Chắc anh ấy cũng biết đi về tốn kém như thế
nào, làm gì có tiền. Ai lại muốn cho vợ về phục vụ mà lại đánh điện bao giờ. Em
khóc suốt mấy ngày hôm nay... Em chỉ lo bơ vơ một thân một mình.
-
Đừng có nghĩ vớ vẩn, vậy cô định bao giờ về dưới ấy.
-
Nếu chỉ là về phục vụ cho anh ấy thôi thì em sẽ đi ô tô. Chậm vài hôm nhưng đỡ
tốn.
Cừ
vẫn đi đi lại lại, anh nghĩ ngợi một cách đau đớn nhưng lại phải giấu dưới vẻ mặt
bình thản: "Đi máy bay ngày mai thì may ra kịp. Từ hôm nhận được điện đến
hôm nay cũng đã ba bốn hôm rồi. Liệu vợ chồng có được nhìn nhau lần cuối không.
Tề ơi, nếu cậu mất đi thì cô ấy sẽ sống ra sao đây. Con cái không có..."
-
Em đi ô tô vậy anh nhé?
-
Đi ô tô xóc lắm không được đâu, thôi đi máy bay vậy. Ngày mai có chuyến đấy.
Thấy
chị ngần ngừ, Cừ hiểu ngay:
-
Thiếu tiền phải không, cô không lo, tôi sẽ biếu cô một cái vé máy bay. Còn lượt
lên thì hai vợ chồng đi ô tô cũng được rồi.
Mặt người đàn bà tuyệt vọng kia sáng hẳn
lên, không phải vì được một cái vé máy bay, mà vì chị nghĩ đến lượt lên của hai
vợ chồng.
-
Cứ miễn là nhà em còn sống là may - và chị buột nói một câu đầy tin tưởng -
nhưng có khi cũng phải hơn nửa tháng nữa chúng em mới lên được.
Khi
chị đi ra ngoài rửa chân, Cừ gọi vợ vào gian trong khẽ hỏi (nhưng Tấm vẫn nghe
rất rõ):
-
Nhà còn tiền không?
-
Còn, cần lấy bao nhiêu?
-
Đủ mua một cái vé máy bay, sáu chục.
-
Thế thì thiếu mất hai chục, thôi được... giật tạm chị Vần đến tháng trả, cũng
chỉ vài hôm nữa là lĩnh lương rồi.
-
À, nếu chị ấy còn tiền thì cứ giật thêm ba chục, còn một chục để cô ấy ăn đường.
Chốc nữa sang hỏi ngay đi thôi. Mai cô ấy đi sớm... Sáng mai có gì ăn chưa?
-
Còn cá kho.
Rồi
chị Lụa gọi Tấm:
-
Tấm ơi, tối nay cô ấy ngủ với cháu nhé... có chật không? Trời rét nằm hà tiện một
tí càng ấm.
Tấm
mắc màn thì Cừ đẩy cửa bước vào:
-
Cô Lộc này... cứ yên trí mà ngủ đi. Tôi đã gọi điện ra sân bay nhờ xếp chỗ rồi.
Sáng mai ăn cơm xong, thủng thỉnh lên là vừa. Một giờ máy bay mới cất cánh kia.
-
Vâng, em xin cảm ơn anh.
Suốt
đêm ấy, hễ lúc nào Tấm thức giấc nó cũng nghe thấy tiếng xụt xịt rất kín đáo của
người đàn bà nằm cạnh. Riêng nó cũng thao thức, trằn trọc vì những ý nghĩ lạ
lùng. Cuộc sống của nó tuy còn ngắn ngủi, nhưng nó đã được chứng kiến nhiều nỗi
thương đau, chỉ duy tình thương yêu, sự chăm sóc thành thực của những người
chung quanh đối với kẻ không may mắn là chưa từng được thấy. Nó thường nghĩ đến
cách đối xử của những bà chủ mà nó ở, của những người trong cái làng nhỏ bé mà
nó đã quen biết. Sao những người ở đây chẳng giống chút nào với những người nó
đã từng gặp. Bảy chục bạc đâu có phải ít! Chưa bao giờ nó dám ao ước được có một
số tiền lớn như thế. ừ, nếu nó có thật nó sẽ biết dùng làm gì nhỉ? Nó có thoáng
nghĩ đến một số vốn riêng và những chuyện phòng xa. Ô hay, tại sao những tính
toán vốn đã rất cụ thể, rất chi li qua nhiều lần tưởng tượng của nó, đã thành một
nếp nghĩ rất quen thuộc ở trong nó, trong đêm nay lại hóa ra mờ nhạt đến thế, hầu
như không còn gây được sự thích thú như những lần trước nữa... Vậy nó sẽ dùng
làm gì nếu có số tiền ấy? Hay là nó sẽ may mấy bộ quần áo thật đẹp... Thì cũng
đến một cặp quần thâm, vài chiếc áo sơ mi trắng. Những thứ ấy bác Lụa nó đã may
cả rồi, nó đã mặc rồi và như vậy cũng đã đủ. Rồi những băn khoăn của nó cứ lẫn
lộn, vừa như thật vừa như giả, cho đến lúc nó ngủ thiếp đi lúc nào không biết.
Sáng
hôm sau ăn cơm xong, chị Lụa cầm bảy chục đưa cho bạn dặn:
-
Về Hà Nội tiêu dè dặt một chút, không thì tốn lắm đấy.
Chị
Lộc hai tay đỡ lấy tiền, đầu ngón tay cứ run bắn:
-
Em xin anh chị.
Cừ
hơi cười, nói một câu cốt để chị yên tâm thêm:
-
Hai vợ chồng có lên thì nhớ lại qua đây nhé, tôi có mấy việc muốn nhờ chú ấy.
Nhưng
qua một đêm suy nghĩ chị càng thấy hy vọng của mình rất mỏng manh, chị chỉ còn
ao ước được gặp mặt chồng lần cuối.
-
Em cũng mong thế nhưng chắc chẳng được đâu anh ạ. Lần này em xin chào anh chị
thôi. Về Hà Nội chôn cất cho nhà em xong em cũng về Lạng Sơn ngay. Không biết đến
ngày nào lại được gặp anh chị.
Cừ
ngồi lặng đi, anh khẽ lắc lắc đầu rồi nói nhỏ:
-
Cho vợ chồng tôi hỏi thăm chú ấy...
Chị
Lộc đứng dậy lấy đòn gánh xóc một đầu vào bọc chăn, và đầu kia tay nải, với lấy
cái nón, nước mắt ròng ròng chảy xuống hai bên má:
-
Em xin chào anh chị. Anh chị giúp đỡ em lúc này em chẳng bao giờ quên. Cháu Tấm
ở nhà nhé...
Thấm
thoắt cái Tấm đã ở với vợ chồng Cừ gần bốn tháng. Những ngày đầu tiên chị Lụa
không mến con bé lắm. Nó đi làm suốt ngày, tối đến lại học văn hóa, hoặc dự các
buổi sinh hoạt chung, về mắc màn một lúc đã ngủ. Nó ít trò chuyện với chị, và
nhìn chị bằng con mắt né tránh. Nhưng dần dần cách sống của nó đối với chị cũng
trở thành quen thuộc. Một ngày hai bữa nó đi lấy cơm về, hai bác cháu cùng ăn với
nhau, nó muối dưa cà, thái đu đủ ngâm dấm, quét quáy nhà cửa, ngày nghỉ lại giặt
giũ chiếu chăn, có khi cả quần áo của chị. Có hôm nó xin trên văn phòng được một
chồng báo cũ, quấy hồ dán kín những chỗ vách lở, cắt những tranh ảnh ở các tờ họa
báo trang trí ở đầu giường. Nhìn chỗ nào cũng thấy có dấu vết của nó, rồi dần dần
một cái bóng nhỏ bé ra vào, một mái tóc ngắn đen nhánh thấp thoáng đã trở thành
hơi ấm của căn nhà, là hình ảnh không thể thiếu được trong sinh hoạt hàng ngày.
Buổi nào nó đi làm về muộn phải chờ cơm, tối nào nó không về sớm, chủ nhật nào
nó đi chơi cả ngày, chị bắt đầu thấy nhớ, và khi bóng nó xuất hiện ở khung cửa,
chị thấy trong lòng mình rộn rã hẳn lên, muốn bật ra một câu âu yếm: "Con
đã về đấy ư?". Chị ao ước được là mẹ, nhưng chưa bao giờ chị là mẹ, bóng
dáng nó đã đánh thức trong lòng chị tình mẫu tử. Chị vá quần áo cho nó, để phần
cơm nó, mua cho nó một cái cặp tóc, một cái khăn len với sự cần thiết rất tự
nhiên, không gượng gạo, tính toán, và những lúc ấy trong lòng chị trở nên ấm
áp, vui sướng lạ lùng.
Cừ
thì ít có dịp được gần gũi đứa con nuôi, mỗi tuần anh chỉ về nhà được một hoặc
hai lần. Nhưng mỗi lần về anh đều chú ý đến cách sống của con bé. Anh thích được
nghe nó nói chuyện, xem xét rất tỉ mỉ quan hệ của nó đối với chung quanh. Ngoài
tình bố con mà anh ấp ủ, anh còn thấy mình có trách nhiệm đối với một thế hệ
đang lớn lên. Phải gây cho nó có lòng tin yêu, có cách sống thẳng thắn, cởi mở
thì sau này nó mới trở nên một công dân tốt của cái xã hội hết sức mới mẻ. Anh
là một cán bộ chính trị, lại là người từng trải, nên anh rất am hiểu những
nguyên nhân của mọi hành động tội lỗi mà anh đã từng phải giải quyết. Hầu hết
những con người đáng thương ấy đã bị những thành kiến xấu xa của cái xã hội
đang chết đi đục khoét từ ngày còn thơ ấu. Họ sống và hành động theo những thói
quen tai hại mà tự họ đôi lúc cũng nhận thấy nhưng lại không có nghị lực cưỡng
nổi. Mỗi lần gặp những trường hợp đau đớn như thế trong lòng anh lại sôi nổi một
ý nghĩ: phải chú ý đến trẻ con, phải giáo dục và cải tạo chúng nó, phải làm cho
chúng nó được sống trong cái không khí hoàn toàn mới mẻ của thời đại xã hội chủ
nghĩa. Đấy là phương pháp tích cực nhất có thể ngăn ngừa những tội lỗi sau này.
Đấy là mối lo âu duy nhất hợp lý về hạnh phúc của con cái, giúp chúng nó thoát
khỏi những tấn bi kịch thương tâm mà tự chúng sẽ gây ra...
Hôm
ấy anh về đến nhà vào khoảng năm giờ chiều. Nhà đi vắng vì đang vụ gieo hạt.
Khi anh mắc áo lên chiếc đinh đóng ở đầu giường Tấm, chợt thấy một cái làn mây
nhỏ đan rất cầu kỳ chung quanh lại dán những bông hoa cắt bằng giấy xanh đỏ.
Anh mở nắp làn giơ ra ngoài ánh sáng thấy ở trong có hai cái kén vàng và một
cái kén trắng gài vào búi rơm nếp. Cái trò trẻ con này chắc chỉ là của Tấm. Bỗng
dưng trong lòng anh lóe lên một niềm vui sướng lớn lao. Dẫu sao nó vẫn còn là một
đứa bé, và cái phần trong trắng, thơ ngây ở trong nó chưa phải đã mất hẳn. Ăn
xong bữa cơm chiều, Cừ pha một bình trà đặc, lấy ra một cái bánh nướng, và ít kẹo
để trên bàn. Và khi gian buồng nhỏ bé lên đèn anh càng thấy nỗi vui sướng ngấm
ngầm trong lòng mình lớn lên mãi.
Cái
ước ao thầm kín đã từ lâu trong anh là có một đứa con, hạnh phúc tuy bé nhỏ,
nhưng lại gần như hoang đường. Khi nói chuyện với vợ, anh có thói quen tránh những
chuyện gì dính líu đến hạnh phúc của hai người, nhưng những cặp vợ chồng đã lấy
nhau gần hai chục năm nay mà không nói với nhau về chuyện con cái thì cũng chẳng
có gì để nói với nhau nhiều. Những buổi tối bên ngoài gió rét, một ngọn đèn để
giữa, vợ ngồi khâu vá, và anh vừa xem sách vừa suy nghĩ mung lung. Đúng cái lúc
ấy, lúc hai người im lặng theo đuổi công việc và ý nghĩ của mình, anh thường bắt
gặp đôi mắt buồn rầu của vợ, đôi mắt ảo não như người có lỗi, và chính anh, anh
cũng phải cố kìm mình lại để khỏi buột ra cái câu: "Nếu chúng ta có một đứa
con". Tuy anh không dám nói, và vợ anh cũng không nói, nhưng cả hai lại
như đều than thở với nhau rất nhiều. Từ ngày Tấm về ở với vợ chồng anh, thêm sự
có mặt của nó ở gian buồng này, mỗi lần anh về cũng thêm những câu chuyện mới.
Xen vào những giọng nói trầm lặng, quen thuộc, nổi bật lên giọng nói thanh
thanh, ríu rít, tiếng nói của đứa trẻ. Cho nên mặc dầu nó vẫn sống rụt rè, giữ
gìn, nó vẫn gọi vợ chồng anh là bác trai, bác gái, nhưng anh vẫn thấy sung sướng
mỗi lần nghĩ tới nó, và càng ngày càng thấy gắn bó với đứa con nuôi. Qua mỗi lần
về, anh lại thấy mắt con bé nhìn anh như thắm thiết hơn, quyến luyến hơn, và tiếng
reo của nó "Bác đã về" cũng hồn nhiên hơn, thành thật hơn. Hình như
nó đã bắt đầu yêu anh, tin anh, và hai tháng gần đây sự thay đổi ở nó càng rõ rệt.
Nó nói nhiều hơn trước, kể cho anh nghe các thứ chuyện, toàn những chuyện vớ vẩn,
những chuyện của trẻ con.
Tối
nay sau khi Tấm kể lại rất nhiều chuyện bỗng nhiên nó hỏi Cừ:
-
Bác có thích ăn bún không?
-
Cái con bé này, cháu làm như bác là người ăn uống khó khăn lắm đấy hử!
-
Nhưng bún ở trên này họ làm xấu lắm, sợi vừa to, vừa cứng lại đen xì. Để hôm
nào cháu làm thì phải biết. Hồi ở nhà cháu vẫn làm bún mà... Thế bác đã được tắm
nước vắt bún bao giờ chưa? Nó hơi chua chua, thơm thơm, rất bở ghét bác nhá!
Thế
rồi nó tính toán ở đây nhà nào có nồi to có thể mượn ngâm gạo được. Nếu không
có nồi thì ngâm vào chậu vậy. Nhưng lại không có cối xay bột. Chẳng nhẽ lại vốc
từng nắm gạo cho vào cái mũ nhựa giã thì lách cách quá. Có công giã bột thà làm
bánh trôi ăn lại thích, trên này đường bánh có rất nhiều. Nếu hai bác nó không
thích bánh trôi thì nó quấy bánh đúc. Bánh đúc chan riêu cua thì còn phải nói.
Nhưng bây giờ lại chưa phải là mùa có cua... Và cuối cùng nó bắt sang chuyện
khác:
-
Bác ơi, tháng này cháu được lĩnh lương rồi. Đấy, có bác gái cháu biết, cháu làm
có kém các cô ấy đâu, các cô ấy còn đau bụng, nhức đầu nghỉ luôn, chứ cháu thì
chỉ nghỉ có mỗi buổi. Hôm ấy cháu bị dây thép gai đâm vào chân sâu đến đốt ngón
tay, chảy bao nhiêu là máu. Cháu cứ lo nó sưng tấy lên rồi thì què. Thế mà chỉ
đến chiều cháu lại đi làm được. Da cháu lành lắm kia.
-
Lương cháu thì được mấy chục?
-
Chú Tý bảo cháu là được ba mươi đồng.
-
Ừ, bác mừng cho cháu. Cháu đã định dùng số lương tháng làm gì chưa?
Những
tia vui sướng trong mắt con bé bỗng tắt phụt ngay, cái nhìn trở lại dò xét,
nghi hoặc. Nó ngắc ngứ một chút rồi đáp:
-
Cháu sẽ đưa cả hai bác.
Cừ
nhìn vợ, mỉm cười:
-
Cháu không để tiêu riêng à?
Nó
nói một cách tiếc rẻ:
-
Cháu cũng chả cần tiêu đến cái gì.
-
Các bác không lấy tiền của cháu đâu, mua sắm cái gì đã có bác cho, số tiền ấy cứ
dành lại mà làm vốn. Cháu bằng lòng không?... Nhưng bây giờ bác muốn nói với
cháu một câu chuyện.
Nó
thu người lại, vẻ mặt lo lắng. Chuyện gì thế, bác ấy không muốn mình ở đây nữa
ư?
-
Cháu làm được ra tiền là rất đáng khen. Cháu hãy còn ít tuổi mà đã có thể sống
tự lập được, không cần ăn bám vào ai. Nhưng theo bác thì bác không muốn cháu đi
làm, vì ăn mặc của cháu đã có hai bác lo, lớn lên cháu cần gì thì tùy theo khả
năng của bác, bác sẽ chu cấp đầy đủ. Bác chỉ muốn cháu được đi học, bây giờ
cháu không học thì rồi lớn lên cháu vẫn phải học. Thà rằng học bây giờ có phải
chữ nó dễ vào đầu hơn không. Cháu đã nghe ra chưa? Năm nay cháu mới mười bốn tuổi,
bác sẽ cho cháu học đến năm hai mươi, nếu cháu còn có sức học nữa thì cứ học
cho đến năm hai lăm, hai sáu rồi ra phục vụ xã hội cũng vẫn vừa. Sau này các
bác không cung cấp được đủ cho cháu thì đã có chính phủ cung cấp. Cứ lo mà học
cho tấn tới, còn ăn đã có người khác lo, có xã hội lo... Thế nào, ý cháu ra
sao?
Thấy
con bé cứ cúi gằm mặt xuống, Cừ biết ngay nó đang xúc động, anh nói rất nhẹ
nhàng:
-
Thế thì chiều mai bác cháu ta lại lên đường về nông trường bộ nhé. Trường ở
ngoài châu đến thứ hai thì mở. Giấy bút bác đã sắm cho cháu đủ cả rồi.
Chị
Lụa đã hơi ngân ngấn nước mắt vì không ngăn nổi sự nhớ thương của mình đối với
đứa con nuôi. Nó ở với chị thấm thoát đã được gần bốn tháng. Nó đã đem lại cho
cuộc sống cô quạnh của chị những niềm vui chưa từng có. Bây giờ nó lại đi, và một
mình chị ở lại cái gian buồng nhỏ bé này, cái gian buồng mà bất cứ chỗ nào cũng
thấy dấu vết của con bé để lại.
Chiều
hôm sau, trên con đường cái rộng nằm giữa thung lũng Điện Biên, Cừ đạp xe rất
thong thả đi trước, sau yên xe buộc chiếc ba lô của Tấm và một cái mền bông. Tấm
đi sau cùng với chú Quang nó. Nó mặc chiếc áo sơ mi trắng, cổ bẻ tròn, một bên
mái tóc là chiếc cặp có giát những miếng đá xanh, đỏ, tay cầm cái làn mây dán
giấy hoa.
-
Đêm nay chú ngủ lại trên ấy chứ?
-
Chú ở chơi với cháu một lúc rồi chú về ngay.
-
Đêm mới về đến nhà à?
-
Chân chú có ngắn như chân cháu đâu.
-
Cháu với chú bước thi nào.
Rồi
nó bước dài chân ra, sau nó bước ngắn lại nhưng đi rất nhanh gần như chạy, và
nó đã thấy thích thú ngay cái trò chơi mới mẻ vừa nghĩ ra. Quang chạy vượt lên
một quãng rồi dừng lại, cười:
-
Đi chậm thôi cháu ạ, có chuyện gì kể cho vui đi.
Những
bụi ké đồng tiền ở dọc đường đã rụng hết lá, chỉ còn để lại trên nhành cây mảnh
dẻ những nụ hoa vàng nhỏ như cúc áo. Một cây vông vang mọc xen vào giữa bụi tre
dại, hoa nở ra mướt vàng, nhị đỏ màu mận chín. Bày sẻ bay từng đàn vụt qua đầu
hai người rồi đậu trên những ngọn xoan thẳng tắp và kêu ríu rít trong đám lá
xoan non đỏ ửng vì ráng chiều. Xa xa những cánh cò trắng lóa, cánh cong như
vòng cung bay rập rờn lướt trên màu tím thẫm của dãy núi. Khung cảnh lặng lẽ và
thơ mộng. Và lần đầu tiên, bộ mặt mỹ miều đầy sức quyến rũ của thiên nhiên đã
rung động được tâm hồn con bé Tấm. Nó quay lại nhìn Quang bằng đôi mắt đen
nhanh nhánh:
-
Chú Quang ơi, ở Điện Biên đẹp quá chú nhỉ?
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
namkts57@gmail.com