Cái Thời Lãng Mạn
Nguyễn Khải
1.
Tôi về xã Đồng Tiến là do sự rủ rê của một
người bạn. Tức là anh Biền. Ngày trước Biền là trưởng ban hành chính của Tạp
chí Văn nghệ Quân đội, ra quân năm 1958, năm ấy anh mới hai mươi bốn tuổi. Anh
trở về làng phải vật lộn với miếng ăn mất vài năm, năm 1961 được bầu vào đảng ủy
xã, năm 1962 làm chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp toàn xã và là người có học vấn
cao nhất trong số cán bộ xã thời bấy giờ.
Các
mối quan hệ giữa tôi với anh, giữa tôi với ban thường vụ đảng ủy xã, với gia
đình này gia đình kia trong ít ngày "thâm nhập thực tế?" đã được tôi
canh cải chút ít để đưa vào một truyện vừa. Là do cái tài mình kém, cái khả
năng tưởng tượng khô cằn, cứ phải bám dựa vào một hình mẫu nhất định nên mới
sinh ra lắm chuyện rắc rối. Rắc rối ngay với mấy người lãnh đạo của xã nên tôi
chỉ còn một cách là im lặng, vì anh em đang giận mình, có thanh minh gì cũng
khó lọt vào tai đương sự. Năm tháng qua đi, nhiều việc lớn ập đến, cái giận của
ngày nào, cũng đã nguôi ngoai dần, có thể gặp mặt nhau để bình tĩnh nói lại về
mọi sự cho hiểu nhau hơn. Nhưng vẫn chưa có cơ hội trở lại. Mãi tới hăm bốn năm
sau. Một khoảng thời gian đủ dài để gói trọn một cuộc chiến tranh, nhiều đời
người, nhiều buồn vui và bao nhiêu là thay đổi trong các mối quan hệ. Như đã
sang hẳn một kiếp khác. Giờ phút đầu tiên đặt chân lên quê hương của một tác phẩm
tôi đã nghĩ đúng như thế. Ngày mới đến xã lần đầu tôi đi xe lửa tuyến đường Hà
Nội - Yên Bái, tới ga Tiên Kiên bốc xe đạp xuống, rồi cứ thế đạp, xuống dốc,
lên dốc lại xuống dốc, trời rất nắng, hai bên là đồi, đồi trọc nhiều hơn nên
càng nắng. Lại phải tìm xã, đạp vượt lên cả ba bốn cây lại đạp vèo vèo lộn lại,
mà không thấy mệt, đạp xe cả ngày cũng chưa thấy gì là mệt. Còn bây giờ, thôi,
chẳng nên nói một chút gì về cái bây giờ của mình vì nó không được vui. Sức khỏe
không vui, cuộc sống cũng chưa vui, đọc lại những gì mình đã viết trong bấy
nhiêu năm lại càng không được vui cho lắm.
Lần
này tôi về xã Đồng Tiến bằng xe hơi, tất nhiên là đi nhờ xe của tỉnh, nhưng một
người viết mà đi xe hơi xuống xã vẫn cứ buồn cười thế nào. Xe chạy thẳng vào ủy
ban xã, xuống xe còn hỏi: "Bao giờ thì đến Đồng Tiến?". Dọc đường đến
xã tôi không nhận ra một chút gì quen thuộc. Mới lạ hết, kể cả khu nhà máy phân
lân. Vì một nhà máy đang hoạt động rất khác với một công trường ngổn ngang xộc
xệch những đất đá, những lớp rào, những cần cẩu. Mấy người tôi gặp đầu tiên là
bí thư đảng ủy xã và chủ nhiệm hợp tác xã. Người ba mươi tuổi, người ba mươi
lăm tuổi, một người vốn là cán bộ chăn nuôi trên huyện, một người là kỹ sư nông
nghiệp, nhưng trước đó anh đã là bộ đội ở chiến trường. Cũng mới cả. Cũng không
thể quen biết. Hăm bốn năm trước họ là những ai nhỉ? Là một lũ trẻ con làm sao
mình có thể biết! Tôi không được biết anh em, nhưng anh em thì có biết tôi. Bí
thư đảng ủy xã là con rể ông Tuy Kiền mà. Oan gia lại đối đầu, tôi cười với
mình nghĩ thế.
-
Ông già năm nay đã tám chục chưa? - Tôi hỏi.
-
Kém một tuổi tròn tám mươi, nhưng ông bủ tôi còn khỏe. Năm nọ ốm cả tháng đã tưởng
chết.
-
Ông già còn giận tôi không?
Bí
thư xã nhìn tôi bằng cặp mắt rất dài, gương mặt dài, miệng rộng và tươi.
-
Hồi xưa thì có giận nhưng gần đây ông bủ lại hay nhắc đã lâu không thấy anh về
chơi.
Tôi
nói đùa đùa:
-
Tôi với anh coi như đã có quen biết nhau từ trước, từ ngày anh về làm rể ông bủ
Kiền. Còn ông chủ nhiệm bây giờ có dính líu gì đến ông chủ nhiệm ngày xưa
không?
Chủ
nhiệm hợp tác xã gầy, cao, da mặt tái sạm, mười hai năm sau chiến tranh vẫn
chưa dứt hẳn cơn sốt rét.
-
Có chứ, tôi là em rể cái ông chủ nhiệm anh viết trong sách ấy.
Làng
xã của mình là thế. Họ hàng rồi mới đến làng nước. Chỉ trỏ vào mặt nhau nói là
tôi là ông, là anh này là thằng nọ, rồi trời xui đất khiến thế nào lại là con rể,
là cháu rể, là em rể nhà người ta, nghĩ lại mới ngượng. Các cuộc đấu tranh thì
qua đi, còn họ hàng làng xã vẫn nguyên đấy, nên làm gì nói gì cũng phải nghĩ
lui nghĩ tới chứ không thể vô tư, xổng xểnh như các nơi chạ người. Cơ quan, xí
nghiệp là nơi chạ người. Nơi chạ người nói gì cũng được. Không làm ở đây thì
làm ở kia, đâu có buộc được mình cả đời.
Lại
một ông nào nữa ria mép râu cằm đen đúa một nửa mặt, lững thững từ sân bước lên
hè, từ hè vào phòng tiếp khách, không chào hỏi một ai cả, đứng ngay trước mặt
tôi, hỏi sõng sượt:
-
Thử xem còn nhớ ra nhau không nào?
Là
người quen à? Ai thế nhỉ? Vẫn lạ lắm.
Người
kia vẫn tiếp tục thách thức:
-
Quên hả? Ông quên tôi thật hả?
Nói
rồi há mồm cười. Tôi đứng vụt lên, kêu to:
-
Ninh em Khang phải không?
Ninh
bước vòng qua mép bàn, nắm chặt lấy hai cánh tay tôi lay nhè nhẹ, cái cười như
chợt cứng lại vì xúc động.
-
Đi lâu thế, đã tưởng không bao giờ trở lại nữa. Năm nay anh bao nhiêu tuổi rồi?
Tôi
cười gượng gạo, buồn rầu:
-
Đừng hỏi tuổi tôi, còn em, để im mình tính, năm ấy là mười bảy, năm nay bốn
mươi mốt phải không?
-
Thằng con lớn của tôi năm nay đã mười bảy.
Ninh
ngồi kề sát tôi. Tôi cũng tì khuỷu tay lên cánh tay hắn. Hắn cứ nhìn tôi mủm mỉm
cười. Râu ria gì mà khiếp. Chốc chốc hắn lại nói nhỏ: "Chóng thế! Chóng thế!"
Tôi cũng nói: "Chóng thế! Chóng thế!". Từ lúc này tất cả đối với tôi
đã hóa ra quen thuộc, thân thiết. Vì có Ninh ngồi cạnh tôi. Bí thư xã hỏi tôi sẽ
làm việc với xã vào buổi nào còn "bố trí thời gian". Làm việc à? Làm
việc gì nhỉ? Tôi không có ý định làm việc mà chỉ nhằm trong vài ngày ngắn ngủi
tới thăm lại bà con và bạn bè quen thuộc. Tôi trả lời thế nhưng xem chừng cả
hai người lãnh đạo của xã đều không muốn tin. Làm sao mà tin ngay được sự vô tư
đó, vì tôi đã từng gây rắc rối cho xã một lần rồi. Họ lại hỏi tôi sẽ ăn ở đâu,
nghỉ ở đâu. Ninh trả lời liền là tôi sẽ ăn nghỉ tại nhà hắn. Chủ nhiệm nói
chúng tôi có nhà tiếp khách, có bếp ăn tập thể, ăn nghỉ tại đó rất tiện.
"Chúng tôi sẽ cử người đến làm việc với anh, theo yêu cầu của anh". -
"Thì đã bảo tôi không có ý định làm việc. Tôi đi chơi mà". Hai người
lãnh đạo lại nhìn nhau. Bí thư xã nói trước: "Hiện nay ở xã đang có mấy
chuyện phức tạp...". Chủ nhiệm nói chữa: "Gọi là phức tạp nhưng thật
ra cũng không có gì..." Tôi nói: "Trước khi về tỉnh, thể nào tôi cũng
xin được gặp các anh một buổi". Hai người lãnh đạo lại nhìn nhau và đồng
ý. Ninh ngồi cạnh tôi không nói gì thêm, chỉ mủm mỉm cười. Tại sao hắn lại cười?
Ninh
đứng ở sân ủy ban, hỏi tôi: "Anh còn nhớ chỗ này là chỗ nào không?".
Một dãy nhà rất dài khoảng mươi gian nhưng chỉ có hai gian mở cửa để làm việc
và tiếp khách, còn các gian khác đều khóa ngoài, một dãy nhà ngang cũng khóa.
Và cái sân đến là rộng, là sân phơi ngày trước thì phải, lát gạch hẳn hoi nhưng
cỏ mọc giữa các vuông gạch đã cao gần đến bụng chân và rất nhiều thanh sắt để
ngổn ngang trong đám cỏ. Là nơi nào nhỉ? Cái khu vực nhộn nhịp, vui vẻ của hai
chục năm về trước, có phòng truyền thanh của Hiềm, có cái giếng rất trong mỗi tối
tôi đến tắm, một lối đi thật đẹp bao ngoài với hàng dừa che rợp một vùng ao, là
ở xóm nào nhỉ? Là xóm Đông Chấn, Bái Tỉnh hay Bình Chính?
-
Là nó đấy, sân phơi đấy, chỗ anh vừa ngồi là phòng truyền thanh của ông Hiềm đấy.
Tôi
bước lướt lên gần như chạy, rẽ đám cỏ đi ngang qua cái sân mênh mông, rồi từ bậc
thềm của dãy nhà ngang hoang vắng nhìn ngơ ngác xung quanh, lại cúi đầu đi dọc
cái hành lang hôi mốc, tới tận góc sân đầu kia bần thần nhìn ngược lại. Là nó
thật sao? Đã xa xôi đến thế ư? Đã hoang phế đến thế này ư?
2.
Tôi
vẫn cắm cúi đi trước, đi rất nhanh, như người đã thuộc đường, Ninh phải rảo
chân mới theo kịp.
-
Không vào nhà bủ Kiền hả? - Ninh hỏi sau lưng tôi.
-
Không!
-
Đến nhà ông cả tôi chơi một lát. Ông ấy vẫn nhắc anh.
-
Thôi, để khi khác.
Một
tiếng cười ở phía sau:
-
Đến cổng nhà người ta rồi, còn thôi thôi cái gì.
Đúng
là quên thật, quên hoàn toàn. Cứ nghĩ cái cổng nhà anh Phúc có hai cây duối hai
bên, có những bậc đá đặt xô lệch dễ trượt ngã. Hóa không phải, cảnh trong truyện
tôi viết thế, lâu dần lấy cảnh hư thay cho cảnh thật. Nhà không có cổng, không
có bậc đá, mảnh sân rất hẹp, nhà ngang vẫn như cũ, nhưng nhà trên hình như có
xây lại. Tôi nhận ra ngay vợ anh Phúc, những người đàn bà nhỏ nhắn thường ít
thay đổi, nước da vẫn mịn, răng vẫn đen, tóc cũng còn đen.
-
Chắc là chị quên tôi rồi? - Tôi hỏi.
Chị
nhìn tôi chăm chú:
-
Nom mặt thì quen lắm nhưng không nhớ tên.
-
Thằng Đa nhà chị năm nay nó hăm mấy?
-
Nó sinh năm ta thắng Điện Biên, phải băm mấy chứ. Ông biết nó à?
-
Năm tôi đến đây bằng tuổi nó bây giờ. Ba mươi ba phải không?
Thế
là chị kêu rộn lên:
-
Ông Khải! Nhớ rồi! Dạo trước gầy mà xanh, sao bây giờ to béo thế. Ông Phúc ơi,
ông Khải về chơi!
Có
tiếng người từ trên nhà hỏi xuống, giọng anh Phúc:
-
Ông Khải nào?
Tôi
bước lên hè cười cợt:
-
Sao bảo lâu lâu vẫn nhắc lại còn hỏi Khải nào.
-
Thôi chết! Ông về chơi thật đấy à?
Anh
Phúc ngồi bó gối trên giường, mà gầy quá, da mặt trắng bủng, cánh tay bàn tay vừa
gầy vừa trắng. Còn mắt chỉ có hai hốc mắt sâu hoắm thôi.
-
Tôi hỏng mắt mấy năm nay rồi. Giàu hai con mắt...
-
Chắc là ông để muộn quá.
-
Bác sĩ trong nhà, muộn thế nào. Thằng Đa đưa tôi lên bệnh viện mắt Hà Nội, chạy
chữa một tháng chỉ cứu được một mắt, hai năm sau múc nốt con mắt còn lại. Con
người ta tránh được việc chứ không tránh được nghiệp. Với lại, mọi sự đối với
tôi tạm gọi cũng là xong.
Là
xong chứ, xong đẹp đẽ, chu tất, không thể nói là tạm được. Lần đầu tiên đến cái
nhà này, cách đây đã hai chục năm, tôi nghĩ về anh có khác. Năm ấy anh chỉ hơn
tôi khoảng vài tuổi mà đã rất chững chạc, chững chạc và đắn đo và thăm dò. Như
lấy làm khó hiểu và có phần nào hãi sợ tất cả những gì đang diễn ra xung quanh
anh. Gia đình anh vào hợp tác xã nông nghiệp ngay từ đợt đầu, hai đứa em thứ ba
và thứ tư lần lượt đi bộ đội (người em thứ hai đi bộ đội từ năm chống Pháp),
anh ở trong tổ nuôi cá giống vốn là nghề cũ của làng. Ba đứa em nhỏ ngoài giờ học
thì làm ruộng, làm gạch, chăn trâu lấy điểm. Làm ruộng có vụ, những tháng rảnh
rỗi vợ anh lại chạy chợ, gặp gì buôn nấy, còn anh vẫn có nghề may, may lối cũ
cũng được mà lối mới cũng được. Là một gia đình rất nền nếp, có gia phong, dầu
bố mẹ chết sớm, từ năm anh Phúc mới mười bảy tuổi. Nhưng anh luôn luôn giữ một
khoảng cách nhất định với mọi cuộc vận động của xã. Cũng tham gia như mọi người
nhưng không gắn bó. Là nghĩa vụ chứ không là niềm vui. Tin có ít mà ngờ thì nhiều.
Anh cùng một trà tuổi với tôi, là người lao động, người kháng chiến mà cách
nhìn nhận thế sự giữa chúng tôi lại còn nhiều khác biệt. Ngày ấy ở xã có chuyện
bí thư chi bộ gả chồng cho con gái theo kiểu bán, giá tiền là từng ấy, thuận
mua thì đem nhau đi, bất kể cái đứa chồng tiền là thằng nào. Tất cả mọi người đều
lấy làm lạ, riêng anh Phúc thì bình luận thản nhiên: "Cái họ nhà ấy tôi biết,
xưa nay vẫn coi đồng tiền lớn hơn mả tổ, có lạ là người như thế lại được bầu
làm bí thư chi bộ".
Tôi
rất mê anh Biền là chủ nhiệm hợp tác xã lúc bấy giờ. Là người có quyền mà không
tham là hiếm lắm. Anh Phúc cũng đồng ý như thế nhưng lại bảo: "Lúc này cậu
ta đang tham cái lớn hơn nên biết bỏ qua những cái nhỏ". Tôi hỏi:
"Cái lớn hơn là cái gì?" Vẫn cái giọng dửng dưng: "Trẻ hám danh,
già hám lợi, cái lý là như thế!". "Thế còn ông Tuy Kiền?" Anh
Phúc mủm mỉm cười: "Ông này thì hám lợi đứt đuôi rồi, nhưng có đáng là
bao, ai chả thế. Có tức là tức cái đứa không làm gì mà lại ăn rất bẫm
kia". Khi tôi hỏi anh vì sao nhiều gia đình không dốc hết sức mình vào sản
xuất nông nghiệp, lại chạy ngang chạy dọc như một thứ tiểu thương ở nông thôn
thì anh đáp: "Không làm thế có mà đói to, anh cứ nhìn mấy thằng em tôi ngồi
ăn thì biết". Tôi nói: "Dốc hết sức vào cây lúa tự khắc sẽ đủ ăn. Người
trồng lúa không đủ ăn còn ai đủ". Lại cười, cái cười lấp lửng đến là nhiều
ý nghĩa: "Cái lý chung là như thế, nhưng trong thực tế chưa hẳn đã là thế"
- "Vậy cái thực tế ấy là thế nào?". Anh đắn đo phải một lúc mới trả lời,
là do đã tin tôi lắm, đã thân với tôi lắm nên mới trả lời, còn ngồi chỗ khác với
người khác dễ gì dám nói. Mà nói làm gì, nói xuôi thì không thể, nói ngược chỉ
hại đến thân thôi. Đại để, theo ý anh Phúc, nơi nào ruộng đất có ít, người phải
nuôi lại nhiều thì nên để nông dân tự lo lấy miếng ăn của họ. Một nhà người,
già trẻ lớn bé, xúm quanh một mảnh ruộng, bóp từng hòn đất, nhổ từ cọng cỏ, mài
đến nhẵn bóng mọi góc bờ làm gì mà không đủ ăn. Có mấy thước vườn còn nuôi sống
được người huống hồ những mấy sào ruộng! Đất đã ít lại tập thể, lại họp hành, lại
đấu tranh, rồi biểu đồ này thống kê nọ, rồi tính rồi toán, cứ rối như canh hẹ,
rút lại có cái cốt tử là miếng ruộng thì để nó đứng trơ một mình như con côi
con ghẻ. Anh nói: "Cái của ngọc thực vốn bện hơi người, mà phải là hơi người
quen chứ không nên là hơi người lạ, mới ra hoa ra quả được. Anh cứ ngẫm mà
xem...".
Năm
ấy, tôi biết mấy ông xã không thích tôi đi lại quá nhiều với gia đình ông Phúc.
Có thể vì nhà ấy đông anh em quá, họ hàng thân sơ của một chi cũng đã chiếm đến
góc làng. Lại cũng không phải là những người ngu hoặc quá hiền, việc gì cũng biết,
chuyện gì cũng tường, không nói thì thôi, đã nói rất khó bắt bẻ. Lại cũng có thể
anh em nhà họ là gia đình kháng chiến, thực hiện các chính sách rất nghiêm chỉnh,
nhất là chính sách nghĩa vụ quân sự, đời cha đời ông không làm điều gì phi nhân
thất đức, nên họ có quyền chỉ trích, có quyền phản đối, có quyền phát đơn kiện
tụng nếu họ muốn mà không một ai dám ngăn trở hoặc đe nẹt. Nên mấy ông làm việc
ở xã mới ngại, mới ghét, không muốn một anh nhà văn nhà báo lui tới chơi bời với
anh em họ, sợ sinh biến.
Tôi
thích lai vãng tới gia đình này chỉ vì một lý do rất đơn giản: Tôi đang mê say
người em thứ tư của anh Phúc mới ở bộ đội về, tên là Khang, sẽ là một mẫu người
lý tưởng của tôi trong một truyện nào đó, sắp tới. Đã tính thế. Thêm nữa, đến với
anh em họ rất vui, những đàn ông là đàn ông, ra vào nguềnh ngoàng, ngồi đâu
cũng có người, đứng đâu cũng gặp người, toàn là người thích nói vui nên mình
cũng vui lây. Chỉ nói vui thôi chứ không nói xấu một ai, châm chọc một ai, hoặc
bàn luận việc này việc nọ của xã mà họ không bằng lòng. Tôi biết là anh em họ
không bằng lòng nhiều chuyện nhưng họ chỉ nói nhỏ với nhau thôi, chắc vậy, chứ
không để lọt vào tai người ngoài. Chẳng phải vì sợ mà chỉ vì họ không thích thế.
3.
Mấy
chục năm sau trở lại, nhà rộng hơn xưa nhiều, mấy đứa em đã có những cơ ngơi
riêng, nhưng nhà vẫn chật, vẫn rất là lắm người vì một dãy con trai đã trưởng
thành. Rồi hai đứa đi bộ đội mới về. Đứa làm nhà máy đã ở riêng nhưng vợ chồng
nó vẫn bế con sang gửi ông bà và xin ăn một bữa cơm trưa. Vẫn là một gia đình rất
vui, toàn nói những chuyện vui. Chả biết ông chủ có được vui không, xem chừng
ông bằng lòng với số phận, mà đã bằng lòng là lại tìm ra những cái cớ để vui.
Nhìn anh Phúc đi đôi guốc mộc cao, lần theo vách nhà bước xuống hiên, rồi từ
hiên víu lấy cái má cột thả dò dẫm từng chân xuống mà sợ. Con cái thì ngồi cả đống,
chả thấy có đứa nào chạy ra dắt đỡ. Tôi bảo thằng con thứ hai làm ở nhà máy
phân lân: "Xem bố mày đi đâu kia!" Nó cười: "Đừng có mó máy vào
người ông ấy mà nghe chửi. Ông không thích có người dắt". Tôi nói: "Lỡ
ngã thì chết". Nó vẫn cười: "Có mình ngã chứ bố cháu làm sao mà
ngã". Mù mà vẫn sạch, chỉ có rửa mặt với chân tay trước lúc ăn cũng phải kỳ
cọ cả giờ. Gia đình và tôi ăn cơm ở bàn, còn ông chủ xin phép được ăn riêng, một
bát cơm đã có sẵn thức ăn, một đôi đũa bày trên cái khay nhỏ do bà vợ bưng lên
để bên cạnh. Ông chủ ngồi co chân một góc giường, bát cơm đặt hờ trên gối, cúi
đầu và thong thả từng miếng nhỏ, cái đầu như rất nhẹ, cả thân người vừa bé vừa
nhẹ, dầu đã cạn rồi, chỉ còn cháy bằng cái tàn than ở đầu ngọn bấc thôi. Quay lại
với mấy đứa con anh Phúc ngồi hầu cơm ông nhà báo, bạn cố tri của gia đình, mà
buồn cho mình quá. Vì cái cháy lên của tôi trong trò chuyện với chúng nó đã khó
nhọc lắm, cháy lên để tỏ ra mình chưa lụi, chưa thể lụi, kỳ thực cũng đã bắt đầu
cháy bằng cái tàn bấc rồi. Cả ba thằng đều cao lớn, đẹp đẽ, lại râu cằm, lại
ria mép, cái nhìn từng trải, cách nói lịch thiệp, khôn ngoan hơn các chú nó
ngày xưa nhiều, mới biết thời thế đã đổi thay, một đời người là ngắn ngủi. Đã
ngắn lại còn những mơ mộng hão huyền, những tham vọng vớ vẩn, những việc làm vô
ích và buồn cười nên lại càng ngắn. Lúc khôn ra, tỉnh ra, hiểu ra thì già mất rồi,
làm lại không được, nên buồn, buồn và giận, giận mình là chính chứ không dám giận
đời, đời vốn nó là thế, mãi mãi là thế, mình muốn cưỡng lại nên mới sinh ra nhiều
sự hồ đồ, sinh ra ân hận, sinh ra buồn bực lúc tuổi già. Cái tuổi bắt đầu
già...
Năm
còn trẻ tôi nhìn các ông già như một đẳng cấp xa lạ, nể sợ và tò mò vì mình
không thể biết, đã già bao giờ mà biết! Bây giờ tôi đã được đứng trong cái đẳng
cấp cao quý đó rồi, nhìn lại bọn trẻ cũng vẫn nể sợ và tò mò dầu mình đã có nhiều
năm là chính họ. Nhưng cái thời mình khác, cái thời họ khác, nghĩ ngợi và hành
động không còn giống nhau, tưởng tượng về nhau cũng khó nên rất lạ. Với cái lạ,
cái tò mò tôi đã làm một cuộc phỏng vấn chớp nhoáng với một trong ba đứa con của
anh Phúc, cái thằng theo tôi nghĩ là sắc sảo nhất, tự tin nhất, dám nói những
điều mà bạn bè nó chưa dám nói. Tên hắn là Định, đứa con trai thứ tư của anh
Phúc, năm nay hăm bốn tuổi, mới xuất ngũ năm ngoái, vừa đúng cái khoảng cách một
lần đi và một lần về của tôi ở xã Đồng Tiến. Mắt xếch, cái miệng thật lém, da
trắng, lại tóc dài, lại một chút ria loáng thoáng; cái áo pun màu xanh đậm, cái
quần nhung nâu đã cũ, đi đôi dép Nhật, là một chàng trai của hôm nay, có thể sống
rất thoải mái, rất tự nhiên như ở chính nhà mình bất cứ một thành phố lớn nào
trong cả nước.
Tôi
hỏi:
-
Nhà này được chia mỗi vụ bao nhiêu cân thóc?
Định:
-
Hơn hai tạ, một ngày công ở đây có sáu lạng rưỡi. Vụ nào được là cân mốt. Nhà
này có mười hai miệng ăn, một ngày thổi bốn cân rưỡi gạo. Ăn được khoảng một
tháng, còn lại năm tháng phải sống bằng những nguồn thu khác.
-
Là những nguồn thu nào?
-
Nuôi cá bột như thời chú mới đến đây ấy.
-
Cái thời tao mới đến đây mày còn ở các nước Nam Nứ nào, làm sao mà biết?
Định
cười, cái cười gống chú Khang nó hết sức:
-
Đọc truyện của chú thấy viết lia lịa về cá con, cứ y như người của cái làng
này.
Tôi
nói trêu:
-
Cái anh quẩy đôi thúng sơn vừa đi vừa lắc chả hợp chút nào với bọn mày hôm nay,
bẻo lẻo như thằng bán cá con, hai mươi hăm mốt, con này tốt bốn mốt bốn hai...
Định
hơi đỏ mặt nhưng vẫn cười cợt:
-
Bây giờ văn minh hơn xưa nhiều rồi. Ví như nhà cháu có hai cái máy cô-le, bơm
nước vào hút nước ra ao lớn cũng chỉ trong đêm là xong, mờ sáng cho cá vào sọt
lót nilon, đặt lên xe máy mỗi bên một sọt, rú ga chạy vù vù tới các mối mua
quen đổ cá, chỉ nửa buổi đã phấp phới lượn xe về. Cũng không phải đếm nữa, mà
là cân, cân khô, con nào chết bỏ, làm ăn như thế chứ.
-
Một vụ cá nhà mày được bao nhiêu tiền?
-
Khoảng vài trăm ngàn.
Tôi
kêu khẽ: "a", rồi lại hỏi:
-
Còn nguồn nào nữa?
-
Bán rau giống, su hào, bắp cải, cà chua, hành, tỏi... Nhưng phải đi xa một
chút, ngược tàu lên tận Yên Bái, Phố Lu.
-
Một vụ rau có được khá không?
-
Như vụ vừa rồi, anh em cháu thu hai trăm ngàn.
Tôi
lại kêu nhỏ: "a".
-
Còn gì nữa?
-
Nuôi lợn.
-
Nuôi lợn thì vất vả đấy.
-
Chả có gì là vất vả. Nhà cháu toàn bắt lợn từ bảy chục cân về nuôi, có lúc bắt
hẳn một con tạ rưỡi. Vỗ thế nhanh, mỗi ngày lên một cân thịt. Gọi là "nuôi
phục", khi hợp tác xã cần lúa đổi lấy thịt là mình có ngay. Hiện nay trong
chuồng cũng có một con gần hai tạ.
-
Lỡ đang nuôi nó chết thì sao? Lỗ to!
-
Lỗ thế nào. ở xóm này có một nhà được mổ lợn. Nửa đêm gà gáy nhìn con lợn kém vẻ
tươi là gọi ông ta đến bắt liền. Lợn ốm nhưng ông ấy vẫn trả giá như lợn khỏe.
Gọi là mối quan hệ hữu nghị, giữa người nuôi lợn với người mổ.
Anh
Phúc nói thêm:
-
Còn là ngân hàng cho vay vốn của bọn chúng nó nữa đấy.
Tôi
giương mắt nhìn Định:
-
Là thế nào?
Định
lại cười:
-
Là bất cứ lúc nào mình cần tiền mặt cứ đến ông ta mà lấy. Lãi suất rất nhẹ.
-
Có thể vay được bao nhiêu?
-
Trăm ngàn, hai trăm ngàn, tùy người.
Tôi
lại "ồ" rồi quay sang hỏi anh Phúc:
-
Mức sống bà con bây giờ so với năm nọ có khá hơn không?
-
Hơn nhiều chứ, như nhà này cũng hơn, hơn gấp cả chục lần.
Tôi
lại "a". Và lại hỏi:
-
Đã có tủ lạnh chưa? Có ti vi chưa? Là hỏi khiêu khích chơi chứ cái vùng bán sơn
địa này làm gì đã có điện để dùng những thứ sang trọng đó.
Định
hỏi lại, rất thản nhiên:
-
Chú đã đến thăm nhà ông Biền rồi chứ gì, cái ông chủ nhiệm gương mẫu trong
"Tầm nhìn xa" ấy?
-
Chưa, nhưng mà sao?
Anh
Phúc gắt:
-
Mình biết việc nhà mình thôi, nói nhà người khác làm gì.
-
Nói tốt thôi, nói về sự hơn hẳn của hôm nay so với hôm qua. Cháu chắc nhà chú ở
thành phố Hồ Chí Minh không thể bằng nhà ông Biền ở xã Đồng Tiến được. Cái vỏ
ngoài là phải thua đứt rồi, cái ruột trong cũng thua. Nhà chú có tủ gương lớn gỗ
lát không? Có tủ ly chén gỗ lát không? Có giường nằm và sa lông đóng kiểu mới
cũng bằng gỗ lát không? Nhìn vào trong nhà cứ vàng chóe. Rồi rađiô cát sét, rồi
ti vi màu của Nhật. Không có điện hả, cái bình ắc qui dùng để làm gì nhỉ? Một
tuần xạc điện một lần, ở thị trấn có đến mấy cửa hàng xạc điện.
Tôi
lại "a" nhưng đã tư lự. Rồi tôi lại hỏi:
-
Nhà bí thư xã thì sao?
-
Cháu không biết.
-
Nhà chủ nhiệm hợp tác xã thế nào?
-
Cũng chưa đến bao giờ.
-
Mày là đảng viên chưa?
-
Chưa, nhưng cháu xin làm dân thường thôi, người dân lương thiện và làm tròn mọi
nghĩa vụ.
-
Có định đi đâu nữa không?
-
Không.
-
Có đang phấn đấu cho một mục tiêu nào không?
-
Có chứ, làm giàu, đã giàu muốn gì cũng được mà không ai dám khinh.
-
Mày có thích đọc sách văn học không?
-
Có, nhưng là sách tình báo thôi. Bữa nào ra chú nhớ mua giùm cháu một ít sách
tình báo... sách dịch, chú nhá, cháu sẽ xin gửi lại tiền chú theo giá mua chứ
không theo giá bìa.
-
Mày cũng biết nhiều nhỉ. Cho mình hỏi một câu cuối cùng: Mày có nhận xét gì về
công việc của xã không? Có thắc mắc gì không? Xưa kia chú Khang mày ở bộ đội về
là tìm hiểu ngay tình hình của xã.
Lại
cười:
-
Chú ấy là nhà cách mạng, muốn cải tạo, muốn thay đổi nhiều thứ lắm, nhưng là hồi
xưa thôi, cháu nghe nói lại thế. Còn bây giờ hai chú cháu rất thông cảm nhau,
chú ấy cũng đang quyết tâm làm giàu mà.
Tôi
hơi cau mặt:
-
Người già có quyền đứng ngoài cuộc một chút, nhưng bọn trẻ chúng mày chả lẽ lại
thích đứng ngoài?
Nó
vẫn cười:
-
Muốn nhảy vào cuộc là phải đấu đá nhau, để giành chỗ. Cái chung chả biết có tốt
hơn không, chứ riêng mình chắc chắn sẽ nhơ nhớp hơn trước.
4.
Tôi
nắm lấy tay Khang mà nước mắt muốn ứa ra. Thời gian chả ủng hộ chúng tôi một tí
nào. Chỉ phá phách thôi. Vòng tóc mềm mại đen mướt năm nào đã rụng sạch, chỉ
còn lại cái trán rất hói khô nhăn. Mắt vẫn còn lấp lánh cái màu nâu nhạt nhưng
đã có túi rồi, đuôi mép cũng chảy rồi, hàm răng còn nguyên nhưng như dài ra vì
chân lợi đã co lại. Một ông bủ năm chục tuổi, xấp xỉ với tuổi bủ Sen, bủ Kiền
năm tôi mới tới đây. Cũng năm gian nhà ngói, sân gạch, bể nước, giường nằm gỗ
lát, salon gỗ lát, đồng hồ treo tường, còn khang trang hơn cả nhà anh Phúc. Và
một bầy con, đứng làm hai lớp bịt kín lối xuống nhà ngang để nhìn một ông khách
rất lạ đến chơi với bố. Thằng lớn nhất khoảng mười bảy, mười tám tuổi đang cày
vỡ mảnh vườn trước nhà cũng bỏ bò đấy chạy nhảo vào đứng cùng với các em, chốc
chốc lại đưa mắt nhìn trộm tôi rồi lại nhìn nghiêng đi cười ngượng nghịu. Khang
nói:
-
Chúng nó biết bác đến từ tối qua. Phải nửa đêm mới về nhà chú Ninh, phải không?
-
Tối được một lúc là về. Định sang anh ngay nhưng thấy nhà đã tắt đèn.
-
Nhà tôi ngủ sớm, sớm dậy còn làm hàng.
-
Làm hàng gì?
-
Bánh rán. Dạo này mỡ đắt, đường đắt, đang định thôi.
-
Nhà nhiều người, không làm thì ngồi chơi không à?
-
Ờ, cũng nghĩ thế nên vẫn phải làm.
Tôi
quay người ngắm nhìn bức tranh sống về một gia đình đông vui, những sáu đứa, nhỉnh
hơn nhau một chỏm đầu, đám con trai cởi trần trùng trục, hai đứa con gái một lớn
một nhỏ ăn mặc cũng lôi thôi. ở làng quê, làm nhà sắm đồ là quan trọng nhất,
cho bằng anh bằng em, rồi mới đến ăn, sau ăn mới đến mặc.
-
Chắc anh đã biết chuyện chúng tôi rồi chứ gì. Năm đứa là con của cô trước, thằng
út là con của cô sau. Tôi đã nghĩ là phải chết trước vợ, mấy năm ấy tôi yếu lắm,
toàn thổ huyết thôi, bảo là giãn phế quản. Nào ngờ lại góa vợ để rồi lại lấy
thêm một đời vợ nữa.
Nhân
vật Khang của tôi vừa kết thúc mọi sự phiêu lưu vặt vãnh trong địa hạt văn
chương thì cuộc phiêu lưu thật sự trong đời sống mới bắt đầu. Mà những thử
thách của cuộc sống mỗi ngày chả có văn chương nào tả nổi. Anh không ở lại xã
mà cũng chẳng đi nông trường như tôi đã dự đoán một cách lãng mạn. Anh lấy vợ
ngay năm sau đó rồi lên làm trên công an huyện. Làm cán bộ nhà nước vẫn nhẹ
mình hơn làm anh cán bộ xã, có lương, có gạo, lại vẫn gần nhà. Tính như thế
cũng được nhưng phải đẻ ít, hai con là vừa đủ. Vì cô vợ làm người của tập thể
thì giỏi, làm người của gia đình lại vụng. Không biết xoay xở cho riêng mình là
vụng. Đã vụng lại mắn đẻ, đẻ sòn sòn. Đẻ đứa con đầu, tức là cái thằng đang
cày, thiếu sữa, phải nuôi con bằng sữa bò. Khổ rồi! Đến đứa thứ tư thì không
còn gì để nuôi nhau nữa, khánh kiệt. Cứ mua mì thanh của anh em công nhân nhà
máy về nấu với lá bánh tẻ rau khoai, chồng một bát loa, vợ một bát loa, ba đứa
con ba bát nhỏ. Đẻ đến đứa thứ năm thì Khang mắc bệnh giãn phế quản, mỗi lần ho
ra cả chén máu, đi hết bệnh viện này đến bệnh viện khác. Vợ ở nhà cứ lầm lũi
nuôi một bầy con, mỗi năm một túng thiếu hơn và không có tí chút hy vọng nào
vào tương lai. Tương lai là bà góa. Bà góa trẻ với năm đứa con thơ, lại túng
thiếu, lại không thể ngửa tay xin anh xin em mãi. Lúc lấy nhau như long như phụng,
đẹp đôi đến trời phải ghen, bạn phải tị. Mà hóa ra...
Tôi hỏi:
-
Bệnh tình của chị ấy thế nào mà bệnh viện phải bó tay?
Một
chuyện đã xảy ra từ năm sáu năm về trước, đã lấy vợ khác, đã có một đứa con
thêm mà vẫn ngắc ngứ rất lâu mới nói được, cứ nhìn tránh đi mà nói, vì tôi biết
cô ấy, biết lúc họ khủng khỉnh với nhau rồi lại làm lành với nhau, biết lúc họ
không nói gì đến cái ăn cái mặc, đến vật chất mà chỉ khắc khoải về tình yêu, về
lý tưởng, về chỗ đứng của mình trong xã hội.
-
Chả có bệnh gì cả, Khang nói. Cái bữa đó là vào buổi chiều, cô ấy đi lấy phân
trâu về đến nhà cứ kêu rát vai. Tôi nhìn vai thấy có một vòng đỏ, như cái mụn,
nhỏ thôi. Tôi nói: "Chắc là cái nhọt, đừng để đòn gánh tì lên nó toét
ra". Cô ấy ngồi ở thềm hè, lấy nón quạt, định rửa ráy qua loa rồi mới cho
con bú. Rồi cứ thấy quài tay lên bóp nặn gì đó cái đầu mụn. Tôi ngồi trong nhà
đã bảo tay đang có phân trâu đừng có sờ mó vào mà khốn. Lại còn cãi: "Vẽ,
người làm ruộng lăn lộn với phân gio từ sáng đến tối, vệ sinh như dân tỉnh có
mà đói dài". Rồi lại tiếp tục xoa xoa nắn nắn. Tôi cũng chả để ý nữa. Hai
ba ngày sau vẫn đi làm. Tôi đang nghỉ ở nhà nhưng người yếu chả giúp được gì,
chỉ thổi nồi cơm, nồi canh, tắm rửa cho lũ trẻ là đã thở dốc. Rồi cô ấy sốt,
cho uống thuốc cảm, đánh gió nhưng không đỡ. Qua một đêm thì đã mê rồi, người
nóng như than hồng, co giật từng cơn. Tôi nói có sai đâu, tay dính phân trâu, lại
bóp nặn vết loét là khổ. Đến trưa đưa lên bệnh viện huyện, truyền huyết thanh.
Tối hôm đó cô ấy tỉnh lại, trò chuyện được với nhau cả giờ. Đã mừng, nghĩ là
thoát. Nào ngờ nửa đêm lên một cơn co giật nữa rồi đi hẳn. Cứ như trong chiêm
bao. Chôn vợ rồi mà chiều chiều vẫn nhìn ra cổng, ngóng vợ về. Nhỡ cô ấy về thật
thì sao? Nghĩ thế. Hoặc là tôi mê. Chính là tôi đang hôn mê, tôi đã chết rồi chứ
không phải vợ. Vợ tôi khỏe thế chết sao được. Bữa cơm đơm một bát đặt lên bàn
thờ, vẫn xới một bát để ở góc mâm. Không thể quen được chỉ xới cơm cho con mà
không có vợ. Vợ không ăn ở nhà thì ăn ở đâu, vẫn ngồi ở góc đó và bao giờ tôi
cũng dành cái chỗ quen thuộc ngồi xới cơm mỗi lần ăn cơm nhà. Rồi khóc, đêm
khóc, ngày khóc, hễ ai tới thăm hỏi lại khóc. Như đàn bà anh ạ. Có lâm vào cảnh
ngộ của tôi mới biết thế nào là cái khổ của thằng đàn ông nửa đời chôn vợ. Năm
đứa con, đứa lớn mười hai, đứa nhỏ một tuổi, tôi lại đau ốm, lại không còn gì để
ăn, không còn gì để bán, anh em kiến giả nhất phận, nhờ vả mãi thế nào được.
Vợ
Khang mất cuối tháng tám ta, tháng chín tháng mười anh vừa nuôi con vừa khóc vợ,
đầu óc u ám những ý nghĩ đen tối. Tháng một, anh vay thằng Ninh bốn chục cân
thóc, cũng là vay liều rồi chèo thuyền ra bãi giữa tra lúa trên một rẻo đất pha
cát, cứ mỗi hốc là năm hạt. Tại sao anh làm thế? Chính anh cũng không hiểu. Bởi
đã cùng đường nên phải làm, làm cầu may, làm còn hơn không làm, là nghe có người
nói chơi nói bời ở đâu đó rằng tra lúa ở bãi giữa nếu được ăn là ăn gấp mấy lần.
Rẻo đất ngoài đó vốn vô chủ, của tập thể không, của cá nhân không, là đất của
những người đã tuyệt vọng. Tháng một mực nước thấp nhất thì tra hạt. Đầu tháng
ba là phải gặt rồi. Giữa tháng ba, sau Hội Tổ có mưa lớn rửa đền, các rẻo đất
đó lại chìm sâu dưới nước. Vụ đó anh được, làm cầu may mà được, được lớn, chỉ mất
có bốn chục cân thóc mà thu về một tấn lúa, nhẹ nhàng như chơi. Ngày giỗ đầu
anh làm rất to, mời những mười mấy mâm. Bưng mâm cơm cúng lên bàn thờ vợ, thắp
mấy nén nhang, chẳng kịp khấn khứa gì cứ đứng xuôi tay mà khóc, khóc cho vợ,
khóc cho mình. Phải đến lúc đó anh mới thấy hết cái ranh giới phân chia giữa tuổi
trẻ với tuổi già, giữa cái thời sống cho mình, cho xã hội với bao nhiêu là mơ mộng
giả thật với cái thời chỉ còn biết sống cho con cái, một lũ con, ngoài ra không
còn hy vọng nào khác, niềm vui nào khác.
Nhìn
một góc sân thấy úp lổng chổng ba bốn cái nồi to, là nồi đun nước tráng bánh, một
loạt giàn phên đã đưa ra xếp gần kín một nửa sân.
Tôi
hỏi:
-
Đã làm bánh rán lại làm cả bánh đa nữa à?
-
Làm mỗi thứ một tí mới đủ ăn đủ tiêu ông ạ. Cái này là làm miến, làm miến lãi
hơn.
Nhà
đông người làm miến là tính toán sát nhất. Người tráng, người phơi, người cắt,
đứa nào có việc của đứa ấy, như một đội quân. Ngay đứa con gái út của bà trước
bế thằng con đầu của bà sau, cũng tay bế em tay giặt giặt những sợi miến vừa cắt
cho nó rời ra, tơi ra, trên các giàn phơi. Và ông bố mới sáng đã cởi trần, đầu
hói, bụng vú nhăn nhúm vừa ngồi nói chuyện với tôi chốc chốc lại nhìn ra sân hò
hét con cái. Anh Khang của ngày hôm xưa đấy! Hôm xưa chúng tôi nói chuyện đạo,
bữa nay gặp lại toàn nói chuyện đời, một đời người đến là trầm luân, khổ ải,
nhưng không thể chết được, vì cái gan góc của con người ta cũng không cùng. Có
điều, được cái gan góc thì mất cái mộng mơ, được cái trải đời lại hóa ra lì lợm.
Khôn lên tức là ít tin đi. Vẫn là mất. Mất to.
5.
Tôi
cũng phải kể lại một chút về ông Tuy Kiền hay bủ Kiền cho trọn vẹn một chuyến
trở về cái nơi đã từng đến. Tôi đến thăm nhà ông lần thứ nhất chỉ gặp bà bủ và
một đám con cháu, chả rõ con dâu hay con gái, con trai hay cháu nội. Người con
trai lớn của ông bủ chỉ kém tôi có dăm sáu tuổi, con của anh đã đi bộ đội về,
trạc tuổi thằng Định, ông bủ năm nay đã bảy chín rồi mà. Tôi bước vào cổng nhà
ông vừa mừng vừa ngại, rất mong được gặp ông, lại vẫn khấn thầm ông đã đi đâu
đó không có nhà. Viết về người ta như thế gặp lại cũng ngượng. ờ, thì anh là
nhà văn nhà báo của Đảng của Chính phủ, khen ai chả được, chê ai chả được, quyền
của anh mà, chúng tôi thấp cổ bé miệng, thân phận con ong cái kiến làm sao dám
cãi. Nghĩ thế là ngượng. Ngượng với mình, ngượng với người, có những trang viết
thời này là đúng, thời khác chưa hẳn đã đúng, khen nhau trên báo trên đài là
hay, là tốt, đêm nằm vắt tay lên trán nghĩ ngợi xa gần lại thấy chưa phải đã tốt
đã hay. Viết sao thì viết, cho thuận lòng mình cho thuận lòng người, lúc gác
bút nghĩ lại một đời viết không đến nỗi xấu hổ. Tôi đi với Ninh, không tự giới
thiệu là ai, như là một cán bộ trên huyện trên tỉnh gì đó đi theo ông trưởng
ban kiểm soát (Ninh là trưởng ban kiểm soát của hợp tác xã nông nghiệp) rồi
nhân anh ta có việc phải hỏi bủ Kiền nên cũng theo vào. Bà bủ cũng đã già, kém
ông lão chừng dăm sáu tuổi, nhưng đi lại còn nhanh nhẹn, tóc chưa bạc, răng
chưa rụng, nhìn tôi một thoáng, không hỏi han gì, chỉ bảo Ninh:
-
Ông lão đi đâu từ sớm, anh có việc gì hỏi?
Ninh
nhìn tôi, miệng hắn như hơi cười trong hàm râu đen nhánh:
-
À, vẫn cái chuyện gỗ lạt ấy mà. Nếu ông bủ định mua thì phải báo trước để cháu
còn nhắn.
Bà
lão rót nước mời, mắt vẫn nhìn tôi không ra quen không ra lạ.
-
Ông ấy muốn đóng bộ bàn ghế theo kiểu bây giờ, nay nhắc mai nhắc sốt cả ruột,
đi cả ngày có lúc nào ở nhà mà ngồi ghế.
Ninh
lại nhìn tôi cười, cười về cái gì tôi không rõ.
-
Nhà người ta có mà nhà ông bủ chưa có là ông chưa chịu. Người già nhưng tính trẻ
là thế.
Một
thanh niên khoảng ba mươi tuổi, người mập lùn, trán ngắn, mắt nhỏ, có ria mép
bước lên hè lừ lừ nhìn tôi, rồi hỏi Ninh:
-
Anh phải bàn với nhà máy thế nào, mấy bữa nay họ xả khói khiếp quá, sặc sụa mùi
lưu huỳnh. Cá đến chết hết vì khói thải thôi.
-
Ờ, thì vẫn nói, nói hàng ngày.
-
Còn cái vụ mua bán phân lân kín hở ra sao cũng phải cho xã viên chúng tôi được
biết chứ.
Ninh
lại quay sang cười với tôi, nói tỉnh khô:
-
Cái đó mày phải hỏi ông anh rể của mày, tao làm sao có ý kiến!
Chúng
tôi ra về, tôi lúng túng chào bà bủ và anh con trai có cái nhìn lừ lừ nhưng
không ai chào lại tôi cả. Tức là có biết, biết hết và còn giận lắm. Vì một bài
báo mà cả gia đình người ta hóa thành trò lạ để thiên hạ dòm dỏ, đàm tiếu không
giận sao được. Lần thứ hai tôi đến một mình, định bụng phải gặp mặt ông bủ một
lần để hai ông con có dịp trò chuyện với nhau thật thẳng thắn. Vẫn không gặp,
ông lão đi chăn bò. Hỏi chăn chỗ nào, cái anh có cặp mắt lừ lừ bảo không biết.
Trả lời mà không thèm nhìn mặt người hỏi là đã tỏ thái độ rồi. Chừng như anh
chàng này là cậu út năm nào, đã lên bảy lên tám vẫn còn nằm ườn trên giường mỗi
sáng để bà mẹ đeo đôi khuyên vàng lủng lẳng bưng bát xôi đến dỗ ăn thì phải?
Lần
thứ ba thì tôi gặp ông bủ thật, gặp rất tình cờ ngay ở lối vào trụ sở ủy ban.
Ông lão vốn đã gầy nhỏ nay càng gầy nhỏ hơn, như đứa trẻ, mặc cái áo xanh cộc
tay, cái quần nâu lửng đang đứng trông bò. Ông đội nón lại còn quay nghiêng mặt
đi khi thoáng thấy tôi bước tới nhưng tôi vẫn nhận ra, tôi nhận ra ông từ xa
kia, vì cái dáng vẻ của ông dầu chỉ nhìn cái lưng cũng vẫn khác người.
-
Chào bủ ạ, bủ còn nhớ em không?
Ông
già bỏ nón, quay lại nhìn tôi, miệng như cười, cặp mắt nhỏ tí nhấp nháy.
-
Không dám, ông mới về công tác?
-
Thế bủ còn nhớ tên em không?
-
Không biết, mới đến lần đầu làm sao mà biết.
-
Lần đầu thế nào! Lần đầu là cái năm bủ bằng tuổi em bây giờ.
-
Thế hả, là ai thế!
Tôi
bỏ mũ cầm tay, nhìn vào tận mặt ông lão, cười nhỏ:
-
Bủ không muốn nhận em chứ gì? Vẫn còn giận em lắm phải không?
Ông
già không cười nữa, cặp mắt tinh khôn nhìn tôi chăm chú, định nói gì đó nhưng lại
thôi. Tôi lấy bao thuốc Du lịch mời ông. Ông cầm điếu thuốc, nói khẽ:
-
Dạo này lại hút thuốc có đầu lọc kia à?
Tôi
bắt ngay lấy câu nói thân thiết ấy hỏi lại liền:
-
Tức là bủ biết em có một dạo chỉ hút thuốc cuốn tay thôi, đúng thế không?
Ông
lão lại nín lặng, nhìn xuống điếu thuốc vẫn cầm ở tay.
-
Tối nay em đến thăm bủ nhá?
-
Tối nay tôi bận.
-
Mai nhé?
-
Mai tôi đi ăn giỗ, đi cả ngày.
-
Cho em đi theo với.
-
Người ta không mời mà mình cũng đến hử?
Rồi
ông lại nhìn tôi, vẫn cái nhìn rất chăm chú nhưng nín lặng. Tôi chẳng còn gì để
nói thêm, lúng búng vài lời nửa như chào nửa như xin lỗi rồi bước vội đi.
Bữa
ra về, tôi có đến gặp bí thư đảng ủy xã và chủ nhiệm hợp tác xã, có cả Ninh là
trưởng ban kiểm soát cùng ngồi đó. Tôi ngỏ lời cảm ơn xã đã cho phép tôi trở lại
vùng đất cũ, để thăm hỏi bà con và bạn bè của một thời viết và một thời còn rất
trẻ. Trở lại với những kỷ niệm tức là trở lại với những gì đã vĩnh viễn mất nên
bao giờ cũng buồn dẫu sự đời chẳng có gì đáng để phải buồn. Nếu nay mai viết một
cái gì đó buồn buồn mong các anh cũng hiểu cho cái tâm lý ấy mà thứ lỗi cho. Bí
thư xã đưa mắt nhìn chủ nhiệm hợp tác xã, hơi mỉm cười, rồi nói với tôi:
-
Ông bủ Kiền có nhắn tôi gửi lời tạ lỗi với anh. Ông không giận anh đâu, có gì
mà phải giận, nhưng ông không dám mời anh lại chơi nhà là sợ trẻ con nó nghĩ cạn
dễ nói hỗn.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
namkts57@gmail.com